Trang

20/12/2013

NGỌN NẾN


Quang cảnh là một nhà kho ẩm thấp được bao quanh bởi hàng rào kẽm gai ở Si Ringo. Ringo là một trại tập trung của Nhật trên bờ biển phía tây đảo Sumatra. Bên ngoài, mặt trời nhiệt đới ban ngày đổ lửa và một vầng trăng khổng lồ tỏa sáng bầu trời đầy sao sáng lung linh lúc về đêm. Bên trong nhà kho ấy, là bóng tối triền miên.

Có những con người đang sống trong nhà kho ấy. Không, dùng từ “sống” là sai. Bởi chúng tôi bị nhét cứng ở đó. Thỉnh thoảng chúng tôi mới được nhìn thấy trên đầu chúng tôi leo lét những những tia sáng nhỏ nhoi như của mặt trời hay mặt trăng lóe sáng trên những vết của dây kẽm gai không bị gỉ sét theo năm tháng thời gian.

Tính đến bây giờ đã trải qua bao nhiêu năm tháng hay bao nhiêu thập kỷ? Chúng tôi đau ốm rất nhiều và quá yếu nên cũng chẳng để ý đến thời gian. Lúc đầu, chúng tôi còn nghĩ đến những điều như ngày hay giờ. Bây giờ, thời gian là vô tận.

Bên cạnh chúng tôi và ở phía trước chúng tôi, có những người đã chết, vì đói, vì bệnh tật, vì tắt dần tia hy vọng cuối cùng. Từ lâu chúng tôi không còn tin tưởng vào sự kết thúc của chiến tranh, vào giải phóng nữa. Chúng tôi sống trong một trạng thái ngẩn ngơ, nhụt nhuệ khí, duy nhất với một đam mê còn lại, nó xông lên cổ họng chúng tôi như một con thú hoang: đói. Trừ khi có người nào đó bắt được con rắn hay con chuột, còn không thì chúng tôi rất đói.

Tuy nhiên, có một người trong trại vẫn có thứ gì đó để ăn. Một cây nến. Dĩ nhiên, lúc đầu anh ta không nghĩ đến cây nến như là thực phẩm – một người bình thường không ăn sáp nến bao giờ. Nhưng nếu bạn thấy tất cả chung quanh bạn là những thân xác gầy gò (trong số đó bạn có thể nhận ra chính mình), và bạn, cũng thế, sẽ không đánh thấp giá trị của cây nến này.

Khi anh ta không còn có thế chịu đựng được sự dày vò của cái đói nữa, thì người tù này sẽ thận trọng lấy cây nến ra từ nơi cất giấu, một cái va li nhỏ bẹp dúm, và nhâm nhi nó. Anh ta không ăn hết cây nến. Anh ta coi cây nến như là cứu cánh cuối cùng của mình. Rồi một ngày, khi mọi người bắt đầu phát điên lên vì đói, anh ta sẽ cần đến nó.

Đối với tôi, bạn của anh ta, anh ta hứa sẽ cho tôi một miếng, nên tôi theo dõi anh và cái va li cả ngày lẫn đêm. Việc đó trở thành nhiệm vụ của đời tôi là canh chừng nó để cuối cùng anh ta sẽ không ăn hết cây nến một mình.

Một buổi tối nọ, sau khi đếm những vết khía được khắc trên một cây xà ngang, một người tù khác cho biết đã đến lễ Giáng Sinh. Bằng một giọng đều đều, nhạt nhẽo, anh ta nói: “Giáng Sinh năm tới chúng ta sẽ ở nhà.” Một vài người trong chúng tôi gật đầu, còn hầu hết chẳng ai để ý gì cả. Ai mà còn có thể đeo bám cái ý tưởng ấy nữa chứ?

Rồi một người khác nói môt điều gì đó nghe rất lạ: “Khi đến lễ Giáng Sinh, những cây nến sẽ được thắp lên và chuông sẽ vang lên.” Những lời anh ta nói chỉ vừa đủ nghe, những lời này y như thể đến từ một nơi xa xôi và từ một quá khứ sâu thẳm. Đối với hầu hết chúng tôi, nhận xét này chẳng có gì là ý nghĩa. Nó đề cập đến một điều gì đó hoàn toàn ở bên ngoài sự tồn tại của chúng tôi.

Đêm đã về khua, chúng tôi nằm trên các tấm ván của mình, mỗi người một ý nghĩ riêng – hay nói một cách chính xác hơn, chẳng ai nghĩ gì cả. Rồi anh bạn của tôi trở nên bồn chồn. Anh ta bò về phía chiếc va li và lấy ra cây nến. Tôi có thể nhìn thấy rõ cây nến trắng trong đêm tối. Tôi nghĩ, anh ta sắp ăn cây nến ấy. Chỉ cần một điều là anh ta đừng quên mình.

Anh ta đặt cây nến trên cái giường bằng tấm ván của mình. Giờ thì sao? Anh ta đi ra ngoài, nơi mà những người bắt giữ chúng tôi còn để lại một đống lửa cháy âm ỉ. Đoạn anh ta trở lại, mang theo một miếng củi nhỏ đang cháy. Cái ánh sáng leo lét này đi thơ thẩn trong nhà kho giống như một bóng ma. Khi anh bạn tôi về chỗ của mình, anh ta cầm miếng củi, và châm lửa vào ngọn nến.

Cây nến được đặt đứng trên giường của anh ta, và nó cháy sáng.

Không ai nói lấy một lời, nhưng chẳng mấy chốc hết cái bóng này đến cái bóng khác xích lại gần cây nến. Âm thầm, bóng nửa người phần thân trên của những người đàn ông cởi trần với những gò má nhăn nheo, hốc hác, và những cặp mắt đầy vẻ đói khát làm thành một vòng tròn chung quanh ngọn nến.

Vị mục sư nói với giọng khàn khàn: “Đây là Lễ Giáng Sinh, ánh sáng chiếu soi nơi tăm tối.”

Rồi cha sở lên tiếng, “Và bóng tối không chế ngự được ánh sáng.”

Bạn có thể tìm thấy câu này trong Phúc Âm của Thánh Gio-an. Nhưng đêm ấy, chung quanh cây nến đó, đây không phải là những lời được viết cách đây từ hằng bao thế kỷ. Đó là thực tế sống động, một thông điệp cho mỗi người trong chúng tôi.

Vì ánh sáng ấy chiếu soi nơi tăm tối. Và bóng tối không chinh phục được ánh sáng. Chúng tôi biết được điều đó không phải vì chúng tôi suy luận vào lúc đó, mà vì chúng tôi cảm nhận được nó, một cách âm thầm, chung quanh ngọn lửa đang thấu soi.

Ngọn nến đó trắng hơn và mong manh hơn bất kỳ một ngọn nến nào mà tôi đã nhìn thấy kể từ ngày đó. Và trong ngọn lửa này (mặc dù tôi đoan chắc, tôi không bao giờ có thể mô tả được nó, thật sự là không – đó là một huyền bí mà chúng tôi đã chia sẻ với Chúa Giê-su Hài Đồng), chúng tôi nhìn thấy những thứ không thuộc về thế giới này. Chúng tôi đang bị chìm sâu trong những đầm lầy và rừng rậm, nhưng giờ đây chúng tôi đã nghe thấy tiếng chuông đồng của hàng ngàn quả chuông reo vang cùng một bài thánh ca của các thiên thần đang hát cho chúng tôi nghe. Vâng, tôi hoàn toàn tin chắc điều đó – tôi có hơn 100 nhân chứng, hầu hết họ không thể nói bất kỳ điều gì khác, họ không còn ở đây nữa, Nhưng điều đó không có nghĩa là họ không biết.

Ngọn nến cháy mỗi lúc một cao hơn, nhọn hơn bao giờ hết, cho đến lúc nó chạm vào trần của cái nhà kho tăm tối và rồi nó cứ tiếp tục, vươn đến các vì sao. Không một ai trong chúng tôi đã từng thấy ánh sáng lại nhiều như thế.

Chúng tôi được tự do, chúng tôi được bay bổng, và chúng tôi không còn bị đói khát nữa.

Ngọn lửa đã cháy suốt đêm (vâng, tôi biết không có ngọn nến nào trên thế giới này có thể cháy lâu và cao như thế,) và khi trời sáng, chúng tôi đã hát. Giờ đây chúng tôi biết rằng có một ngôi nhà đang chờ mỗi người trong chúng tôi.

Và đã có. Một vài người trong số chúng tôi đã trở về nhà trước lễ Giáng Sinh năm sau. Còn những người khác thì sao? Phải, họ cũng về nhà. Tôi đã giúp họ nằm sâu trong lòng đất ở phía sau trại của chúng tôi, một địa điểm khô ráo trong vùng đầm lầy này. Nhưng khi họ chết, mắt họ không mờ như trước đây. Mắt họ tràn đầy ánh sáng, ánh sáng phát ra từ ngọn nến của chúng tôi, thứ ánh sáng mà bóng tối không bao giờ chinh phục được.



(“The Candle” – Willem Brandt – From reader’s digest)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Các bạn có thể:
- Viết bình luận trước, sau đó. .
- Copy và dán trực tiếp link ảnh vào khung nhận xét. Sau link ảnh đã dán, không gõ thêm bất kỳ ký tự nào nữa (kể cả nhấn phím Enter).
- Cám ơn Bạn đã bình luận về bài viết.