Trang

11/04/2016

Giọng Huế đặc thù, tiếng Huế khó hiểu... (Phần 2)



Tôi xin kể vài câu chuyện khá vui về việc tiếng Huế gây sự hiểu lầm:

* Một anh bạn người Huế đưa một cậu bạn đến nhà người dì để giới thiệu cô em gái xứ Huế của mình. Vì là lần đầu tiên, anh bạn Nam kỳ hơi ngần ngại. Anh người Huế trấn an, khuyến khích:
- Cứ vô đi, cô ta không có răng mô. Đừng ngại!
Anh bạn Nam kỳ hốt hoảng:
- Mèn đét ơi, không có răng thì ghê quá, tôi không thích.

* Hai bà (một Bắc, một Huế) rủ nhau đi chợ. Bỗng gặp một bà áo tang khăn chế. Hai bà bạn hỏi để tang cho ai. Bà này trả lời chồng mới chết. Bà người Huế hỏi: ‘Đau răng mà chết?’ Bà người Bắc lẩm bẩm: ‘Giời ơi! Đau răng mà cũng chết được sao!’

* Một thiếu nữ Hà thành khi nghe một thanh niên Huế ngỏ lời: ‘Cô cho tôi một cái bóng của cô để làm kỷ niệm.’ Cô ta ngơ ngác hỏi lại: ‘Thưa anh bảo cái bọng gì của tôi cơ ạ?’

* Một ông người Huế khi vào hội tứ sắc đã hỏi làng: ‘Hôm nay tôi hên, muốn đánh lớn. Mấy bà có chịu hai cắc (một lệnh) không? Một bà người Nam giận dữ bỏ về vì nghe lầm dấu sắc (‘) ra dấu nặng (.) cho rằng ông người Huế tục tĩu.

* Một thầy giáo người Huế dạy văn lớp 11 ở một trường vùng cao nguyên. Mới ra trường chưa kinh nghiệm, với giọng trầm trầm, thầy nói: ‘Các em lấy vở ra ghi bài.’ Một em học sinh người Bắc nghịch ngợm nói to: ‘Lấy vợ ra ghi bây.’

Cùng một vật dùng để thức ăn, người Bắc gọi là‘bát’, người Huế gọi là‘đọi’, người Nam gọi là‘tô’.

Để chỉ động tác mất thăng bằng rơi xuống đất, người Nam gọi là ‘té’, người Bắc gọi là‘ngã’, người Huế gọi là‘bổ’.
Cùng loại trái cây, người Bắc gọi là ‘Dứa’, người Nam gọi là ‘khóm’, người Huế gọi là ‘thơm’.

Theo Võ Hương An, sự đa dạng trong ngôn ngữ của một dân tộc là điều tự nhiên. Bao giờ trong cái chung cũng có cái riêng và thấp thoáng trong cái riêng là hình ảnh của cái chung. Hình như địa lý và lịch sử đã kết hợp với nhau để tạo nên cho Huế một môi trường nảy sinh ra nhiều thổ âm và thổ ngữ hơn những miền khác; đến độ có người đã nói là có thể sưu tập thành một tiểu tự điển tiếng Huế.

Ngay chỉ một từ ‘nói’ mà tiếng huế đã có hơn 70 cụm từ liên hệ.
-Nói ba giẻm: thiếu lịch sự
-Nói ba láp:-nt-
-Nói ba lơn (bông lơn): nói đùa, nói giỡn chơi
-Nói ba que xỏ lá: thiếu lịch sưNói ba trợn: -nt-
-Nói ba xàm ba láp: có ý chê. Nói không đâu vào đâu cả
-Nói bả lả:thấy câu chuyện trở nên gay cấn, cần làm hòa, để vui vẻ cho cả hai bên, có mục đích xã giao
-Nói bở sở:nói ú ớ, không nhân thức được điều mình nói
-Nói cà tửng: nói đùa, nói giỡn chơi
-Nói chận họng: nói trước những gì đối phương sẽ nói dể chặn đầu trước, để họ phải theo ý mình
-Nói cho cố:có ý lo xa cho người nói nhiều sẽ bị hớ
-Nói chuốt ngót: nói có tính cách vuốt ve, nịnh bợ
-Nói chưa bưa: nói chưa đã
-Nói dóc tổ:nói láo quá mức
-Nói dựng đứng:đặt ra nhiều chuyện dễ sợ để gán ghép cho người khác
-Nói đặt điều:-nt-
-Nói điêu toa, nói hồ đồ, nói ngoa ngoạnh: nói ngang, nói bướng, đặt nhiều điều không đúng để nói
-Nói đổng: Nói lửng lơ không chỉ rõ ai
-Nói hiện ngụy: Biểu lộ sự ngạc nhiên, không chê, không khen, phảng phất ít nhiều rộng lượng, thông cảm
-Nói húy tiểu: nói những chuyện có phần nào quan trọng, người nghe phải kỵ húy, nể nang không nhắc tới, nay nói ra với nhiều thêm thắt, tưởng tượng pha lẫn giễu cợt
-Nói không ngạ:nói nhiều nhưng chưa hết ý, cỏn hứa hẹn nói tiếp
-Nói lảng: nói tránh qua một đề tài khác vì nếu trả lời trực tiếp là bất lịch sự, không tiện nói
-Nói leo, nói hớt: khi người ta đang nói, mình nói theo, cướp lời người khác để nói
-Nói lép bép: nói lau chau, lách chách, chỉ cách nói không rõ ràng
-(Ăn) nói luông tuồng: nói không giữ gìn ý tứ, nói năng tự do, buông thả
-Nói lựng lựng: nói một chuyện chưa bao giờ xảy ra, nhưng qua cách nói làm cho người khác hiểu lầm câu chuyện đang xảy ra
-Nói như sanh như sứa: nói tía lia, nói liến thoắng
-Nói như nước đổ lá môn: nói hoài, nói đầy đủ ý mà người nghe vẫn ỳ ra không hiểu
-Nói như quạ bẻ bắp: nói nhanh, nói khỏe, nói không ngừng nghỉ
-Nói như rìu chém đá, rạ chém đất: nói với thái độ xác quyết, chắc chắn
-Nói ố ố, lác lác: có ý chê, nói không đâu vào đâu
-Nói ốt dột: nói những điểu lẽ ra không nên nói, làm người nói, người nghe đều mắc cở
-Nói rảng rảng: nói nhiều, nói to
-Nói rồng nói rắn:đặt điều nói thêm nói bớt, nói toàn những chuyện không có
-Nói săn đón, sách hoạch: nói năng không ngoan, chững chạc, lý luận vững chắc
-Nói tam toang, tam tinh: -nt-
-Nói tào lao: nói không đâu vào đâu cả, chẳng đúng tí nào
-Nói tào lao, xịt bộp: -nt-
-Nói tầm bậy, tầm bạ:có ý chê nói không đâu vào đâu
-Nói tầm khào: có ý chê nói không đúng, nói điệu bộ khiếm nhã
-Nói tầm phào: -nt-
-Nói te rẹt: nói nhiều, ngụ ý khoe khoang, muốn người ta chú ý mình
-Nói thày lay: những điều, những chuyện riêng tư, của người ta mà mình vẫn xen vô nói
-Nói thắt nảy: nói làm cho người nghe phải sợ
-Nói thiên lôi, địa tướng:đặt điều, nói thêm nói bớt, nói toàn những chuyện không có
-Nói thiên thung mang nai: nói lung tung, quanh co, nói lai rai chưa vào trọng tâm
-Nói thụi: nói hùa theo
-Nói trạng, nói tướng: nói láo, nói dóc ở mức thượng đẳng, khó tin để khoe khoang
-Nói trời ơi, đất hỡi:đặt điều, nói thêm nói bớt, nói toàn những chuyện không có
-Nói tự thị:lời nói thiếu khiêm tốn, lịch sự của kẻ tự cao, tự đại, hoặc không ai cho phép nói, cho phép làm mà vẫn cứ nói, cứ làm
- Nói xàng xê xàng xự:nói quanh co, úp mở, không vào đề làm người nghe sốt ruột chờ

Ngoài ra, Huế có nhiều cách nói khác nữa như:
-Nói trèo trẹo
-Nói sa đà
-Nói dai như giẻ rách
-Nói dai như đĩa
-Nói cho bõ ghét
-Nói cho một trận
-Nói ba xí, ba tú
-Nói xì lô, xì la

(Ăn nói) kim sanh... (Nguyên Hương: Tiếng Huế, người Huế nói)

Tiếng Huế đặc thù, thay đổi tùy theo môi trường và hoàn cảnh sử dụng. Huế là kinh đô của triều Nguyễn nên tiếng Huế trong cung đình cũng khác tiếng Huế ngoài dân gian. Trong hoàng tộc, con cháu của vua thì được gọi là ‘chị’, ‘mệ’, hay ‘mụ’. Phải gọi như vậy để ma quỷ tưởng là con gái mà không quấy nhiễu hoặc không bắt đi, khỏi phải chết yểu.
Chữ ‘mệ’ ở đây để chỉ các ông hoàng, khác với chữ ‘mệ’ trong dân gian để chỉ những người đàn bà cao tuổi, hay để gọi bà nội, bà ngoại.

Hình ảnh một ‘mệ’ ngồi ăn khoai lang cho chúng ta thấy rõ đặc thù của phong cách Huế và tiếng Huế:
Vắt chân chữ ngũ, ‘chém’ củ khoai lang
Bớ mụ nhà hàng, múc ta ‘đoại’ nước.
Khi nói đến vua, hay các vật dụng của vua, người ta dùng chữ‘long’, hay ‘ngự’. Long là rồng, tượng trưng cho nhà vua.

long bào (áo vua),
long nhan (mặt vua),
long sàng (giường vua),
long đình, (nơi vua hội họp)
long giá, long xa (kiệu, xe vua),
thuyền ngự: thuyền vua đi
ngự lãm: dâng lên để vua xem
ngự uyển (vườn của vua),
ngự tửu: vua ban lộc cho cấp dưới
ngự thiện (bữa ăn của vua),
ngự giá (vua đi),
ngai ngự: chỗ cao nhứt, chỗ vua ngồi
vua nghỉ ngơi: vua ngơi
vua đau nặng: đại tiêm
vua chết: băng hà, thăng hà
mộ vua: tẩm lăng

Khi vua muốn trừ khử một người nào đó, vua cho phép họ tự tử theo ba cách của triều đình, gọi là ‘tam ban triều điển’: uống thuốc độc, thắt cổ, dùng dao kiếm để chết.
Vua cho phép tự xử như vậy gọi là ‘gia ân’
Với tội đồ, ngày xưa thường bị xử chém gọi là‘trảm’. Thủ trảm là chém đầu, thân trảm: chém ngang lưng .

Tiếng Huế dân gian thì thật đặc biệt. Người Huế dùng nhiều từ ngữ không đâu có. Phải ở Huế lâu năm, nói theo từ của người Huế ‘lâu thâm căn cố đế’, mới hiểu được ý người Huế muốn nói gì.

Chúng ta nghe thử hai câu hát sau đây để thấy Huế có nhiều phương ngữ mới lạ:
Ru em cho ‘théc’ cho ‘muồi’(théc = ngủ, muồi = lâu)
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.

Một vài ví dụ về các từ ngữ đặc biệt ở Huế:

Ấy: anh chi, giọng thân mật
Chi lạ rứa: sao lại thế?
Có chi mô: có gì đâu!
Chi tệ rứa: sao tệ thế!
Chi ri: cái gì đây?
Mô:ở đâu?
Không răng mô: không sao đâu?
Mô nà:ở đâu?
Mô rứa:ở đâu?
Đi mô rứa:đi đâu?
Mô hè:ở đâu kia (ai biết đâu không?)
Làm chi tui: làm được gì tôi nào (giọng thách thức)
Biết chi mô: biết gì đâu?
Tê:đó kia
Bên tê: bên kia
Đó tề:đó kìa
Dị chưa tề:kỳ quá!
Ngụy chưa tề:kỳ dị quá!
Khi tê: biết thế nay
Bữa tê: trước đây 2 ngày
Răng: làm sao
Răng ri: sao thế?
Răng rứa: sao thế?
Răng hỉ:sao nhỉ?
Không răng mô: không sao đâu
Biết làm răng chừ:biết làm sao bây giờ
Ai răng tui rứa: họ sao tôi vậy
Răng ra ri: sao đến nỗi thế nầy
Ri em: thế nầy em
Mô ri:ở đâu mà có thế nầy
Nớ:ấy, đó!
Người nớ:người ấy
Nó tề:cái đó kìa
Ấy mà dị chưa: anh mà kỳ quá (nũng nịu)
Rứa hả:thế à?
Mô hả:ở đâu nhỉ?
Ri hả:thế nầy hả?
O: cô
Đoản hậu: không nghĩ tình
Đời tù huy, tù huýt: từ đời xa xưa
Hằm bà lằng: lẫn lộn
Làm bộ, làm tịch: tự cao, tự đại
Làm đày, làm láo: làm dốc, lên mặt hỗn xược
Làm như mèo quào: làm giả dối, phớt qua
Lục lát: nói giỡn mà chơi
Ngựa Thượng Tứ: gái thích theo trai
Ốt dột, ốt dạt: người ta chê cười
Đi thằng cò o ngón: đi thẳng, không chịu về
Tùm lum, tà la:lộn xộn
Gạo lon tộn: học chăm chỉ
Om củ tỏi: ồn ào quá

Tiếng Huế, người Huế khi giận hờn cũng đặc biệt khác người xứ khác.

Theo nhà văn Nguyễn Mộng Giác, người Huế khi chửi lộn cũng có lễ giáo, khuôn khổ, luật lệ của nó (cũng như lúc ra đường, dù buôn thúng bán bưng, người Huế vẫn mặc áo dài, đội nón lá).

Chửi lộn của dân Huế nhắm vào tội bất hiếu (vô hậu kế đại, mồ tàn không ai un...), tội để cho người khác ‘xách lên để xuống tổ tiên mình.’

Người Huế chửi lộn có tính cách dai dẳng. Chửi mệt rồi, vào nhà nấu cơm, đoạn ra sân chửi tiếp. Chửi có vần điệu, có qua có lại như xướng họa một bài thơ.

-Chửi nhiều lúc như nói chuyện, không cần tiếng, có tính cách phân bua cho mọi người thấy mình là người tốt, quân tử; và đối phương, ‘thứ đồ nớ’ là loại không ra gì.

-Chửi có thể vừa đối vừa đáp, kẻ tung người hứng như hò giã gạo. Chửi mạch lạc, nhịp nhàng. Khi chửi có thể giơ tay, giậm chân; nhưng tránh sùi bọt mép vì sợ đối phương cho là‘khùng’, ‘tàng’, ‘điên’.

-Chửi nhẹ nhàng, ra mặt dạy dỗ đối phương với giọng lên xuống trầm bổng; nhưng chửi thấm thía làm cho đối phương phải đau xót, quay quắt như ‘đỉa phải vô’, ‘ngồi phải lửa’.

-Chửi đổng, là chửi bóng, chửi gió khi mất gà, bị hái trộm trái cây... Chửi làm cho kẻ ‘cầm nhầm’ phải cảm thấy ‘ốt dột, ốt dạt.’

-Chửi trù: chửi trù cho người ta ‘chết ẻo’, ‘ăn vào đau bụng thổ tả’, ‘chết không kịp ngáp’, hoặc ‘không chết cũng ngất ngư thấy mụ nội, mụ ngoại.’

-Chửi trù còn trù cho kẻ địch ‘tàn mạt’, ‘cất đầu không nổi’, ‘vô hậu’, ‘vô phước’ làm cho kẻ bị chửi phải đau đớn, lo âu, sợ hãi.

-Chửi có tính cách trách mắng quân vô lương. ‘uống nước không chừa cặn’, ‘cạn tàu ráo máng’, ‘đoản hậu’, ‘như quân cướp cạn’.
Chửi cũng có thể là chửi cho sướng miệng vì không thích một người nào đó, hay ganh tị với người ta, thường phát tiết ra với câu nói ‘khi không mi chọc cho cha mi giận.’
Nói tóm lại, tiếng Huế, giọng Huế thật đặc biệt, khác xa với các xứ khác. Chính vì vậy mà Huế có một chỗ dứng riêng biệt, không lẫn lộn, không pha trộn với bất cứ một nơi nào khác.

Những cụm từ ‘gái Huế’, ‘trai Huế’, ‘bún bò Huế’, ‘nón Huế’, ‘mè xửng Huế’, ‘Huế chay’, ‘Huế đặc sệt’, ‘Huế 100%’, ‘Huế rặt’ đã nói lên điều đó.


Nhà thơ Huỳnh Hữu Dụng trong bài ‘Rất Huế’đã tha thiết xin người tình ‘hãy giữ một chút gì rất Huế’ đã làm cho mình say mê, thương nhớ.

Xin em hãy giữ nét duyên dáng, hiền ngoan dịu hiền và rất đài trang của Huế; nhất là giọng nói dễ thương, mặn mà của Huế.
Giữ chút gì rất Huế mặn mà
Dạ thưa ngọt lịm ai mê say
Và hơi thở mềm, sương khói bay
(Rất Huế, Huỳnh hữu Dụng)
Chúng tôi xin mượn bài thơ ‘Giọng Huế’ của thi sĩ Tô kiều Ngân để chấm dứt bài này :
Ngắt một chút mây trên lăng Tự Đức
Thả vào mắt em thêm một dáng u hoài
Đôi mắt ấy vốn đã buồn thăm thẳm
Thêm mây vào e tan nát lòng ai
Anh quỳ xuống hôn lên đôi mắt đó
Bỗng dưng sao thương nhớ Huế lạ lùng
Chắc tại em ngồi bên em thỏ thẻ
Tiếng quê hương xao động đến vô cùng
‘Hẹn chi rứa, răng chừ, em sợ lắm’
Mạ ngày xưa cũng từng nói như em
Anh mất mạ càng thương em tha thiết
Như từng thương câu hát Huế êm đềm
.. .. .. .. .. .. ..
Nếu lại được em ru bằng giọng Huế.
Được vỗ về như mạ hát ngày xưa
Câu mái đẩy chứa chan lời dịu ngọt
Chết cũng đành không nối tiếc chi mô.
Người Huế trầm ngâm như nhà văn Bùi Bích Hà viết:

‘Con gái Huế ấm như nắng hè, thơm ngọt như mật ong, óng mượt như tơ tằm, thanh bai như nhành lệ liễu và con gái Huế sắc như dao, lạnh như mùa đông, can trường như đá núi, thâm trầm như biển sâu. Gặp rồi không thể không yêu, yêu rồi cuộc tình sẽ là một vết thương thiên thu’.
(Buổi Sáng Một Mình - Huế Yêu Dấu, Bùi Bích Hà)

Giọng Huế đặc thù, tiếng Huế khó hiểu... nhưng cũng vì thế mà Huế có những cá tính riêng biệt không nơi nào có được. Huế lại càng mang tính cách lạ lùng, quyến rũ hơn lên .

Xin nhớ đến Huế và cảm ơn Huế đã tạo cho chúng ta một cá tính làm giàu đẹp thêm cho dân tộc Việt.

Tài liệu sử dụng:
Tiếng Huế Tuyệt Vời - Bùi Minh Đức
Tiếng Huế Trong Nhóm Thổ Âm Miền Bắc Trung Việt - Lê Văn Lân, tuyển tập Nhớ Huế, số 9. Westminster, CA, USA
Tiếng Huế, Người Huế Nói. Nguyên Hương
Tiếng Huế, Một Ngoại Ngữ. Võ Hương An (Trích Tiếng Sông Hương, 1994, Dallas, TX, USA)
Huế Đặc Sệt. Bùi Minh Đức (Trích tuyển tập Nhớ Huế, số 81 8, Westminster, CA, USA)
Tiếng Huế Đặc Thù. Nguyễn Mộng Giác (Tivi Tuần san)
Huế Yêu Dấu. Bùi Bích Hà
Các bài thơ: Giọng Huế của Tô Kiều Ngân
Rất Huế của Huỳnh Hữu Dụng
Một Trời Thơ Bay của Lê Nhược Thủy. 

Tác giả bài viết: Ngọc Lan

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Các bạn có thể:
- Viết bình luận trước, sau đó. .
- Copy và dán trực tiếp link ảnh vào khung nhận xét. Sau link ảnh đã dán, không gõ thêm bất kỳ ký tự nào nữa (kể cả nhấn phím Enter).
- Cám ơn Bạn đã bình luận về bài viết.