Trang

31/10/2019

Khi Nói Xấu, Nói Lén Người Khác


Nói xấu người vắng mặt là một thói quen của rất nhiều người, đàn bà cũng như đàn ông.. Ai chưa từng nói xấu, nói lén người khác thì hãy ném hòn đá đầu tiên đi.
Nói lén rất thường hay thấy xảy ra trong phạm vi gia đình,  giữa bà con với nhau, giữa  bạn bè, đồng nghiệp….
Trong đời sống hằng ngày, đôi khi bà (hay ông) khai ra hết những thói quen tật xấu của người hôn phối. Đó là đem đồ dơ trong nhà ra giặt trước công chúng! Không đánh mà khai làm chi vậy?
Các nhà tâm lý học nghĩ gì về vấn đề nầy?
 Phỏng theo hai tác phẩm dưới đây:
Pourquoi médire nous fait tant plaisir. Psychologies.com

Ai cũng muốn nghe chuyện xấu của người khác
Theo tâm lý thì thiên hạ thích nghe, thích biết những điều tiêu cực, xui xẻo, xấu xa của người khác hơn là muốn nghe, muốn biết những thành công, may mắn hay sự sung sướng của người ta.
Mình càng kín đáo, càng giấu giếm chuyện riêng tư bao nhiêu thì thiên hạ càng cố gắng bươi móc để tìm hiểu bấy nhiêu.
Bởi vậy vô số báo lá cải mới sống và mới tồn tại được…

Nói lén sướng miệng gì đâu
Ai cũng biết nói lén là điều không tốt, không nên làm nhưng ngứa miệng quá, dằn lại không được. Nói ra đã lắm và cảm thấy sướng gì đâu. Đồng thời mình muốn chứng tỏ cho thiên hạ biết là mình đâu phải thuộc loại người ngây ngô bù trất đâu.

Trên bàn tiệc, đôi khi chúng ta thường được nghe thực khách đem chuyện của người vắng mặt ra mà nói mà bàn cho cả bàn đều nghe.
Các thầy trong chùa và các cha cố trong nhà thờ cũng không thoát khỏi vấn nạn bị tín đồ nói lén thế nầy thế nọ. Không có lửa sao có khói?

Tại Canada có câu đố vui. Đố bạn hai bà kia đang to nhỏ chuyện gì vậy? Câu trả lời là họ đang nói lén người thứ ba vắng mặt đó.Hình như câu trả lời nầy có tính kỳ thị người phụ nữ phải không bạn?
Theo người gõ không phải ai cũng đều lẻo mép hết, không phải ai cũng thích nghe chuyện xấu của người khác hết đâu. Vấn đề nầy cũng còn tùy thuộc vào cá tánh của mỗi người mà thôi.

Cùng nhau ghét người kia
Việc nói xấu (médire) người vắng mặt tạo một mối giao tiếp xã hội giữa người nói và người nghe.
Cũng giống như loài khỉ bới lông lẫn nhau, con người cũng có thói quen chem chép (gossip, potiner, commérage).
Theo nhà tâm lý học Laurent Bègue “Cùng nhau ghét cay ghét đắng, nói xấu một người nào đó sẽ làm gắn bó thêm mối giao tiếp giữa người nói và người nghe hơn là chia sẻ nhau những điều tốt về người khác”. Hai người có cảm giác họ gần gũi với nhau hơn, xích lại gần nhau hơn nếu họ cùng nói chuyện xấu hơn là nói việc tốt về một đệ tam nhân nào đó.

Nói xấu là nói ra những điều không tốt lành, tiêu cực hay bất nhã về một người nào đó
Kẻ nói xấu người khác có nguy cơ bị xã hội coi thường, nhưng trong thực tế thì ngược lại: mang một vẻ thành thật, người nói xấu muốn chứng tỏ cho người nghe là mình tin cậy vào anh ta. Cảm động trước nghĩa cử nầy, người nghe sẵn sàng đem chia sẻ những điều bí mật mà anh ta cũng đã được biết.

Nói xấu (médire) là nói ra cho người khác nghe về những điều tiêu cực, những vịệc không mấy tốt đẹp của một người vắng mặt, nhưng người mách lẻo cho rằng tin nầy có căn cứ. Những lời đồn đại như trên giúp cho người loan tin có được cảm giác an tâm.

Tại sao họ phải nói xấu?
1) Bằng mọi giá, hắn ta không từ khước bất cứ cách gì miễn được thành công (ce type serait capable du pire pour réussir)
Thí dụ: “Bạn có biết không, nghe nói ông A có thời đã ngồi tù về tội lường gạt ”
Theo nhà xã hội học Jean Bruno Renard  thì người nói xấu cố tình gieo rắc những tin không tốt về một người nào đó và họ cho rằng đó là tin có cơ sỡ đáng tin cậy.
Cho dù nguồn tin có đúng hay sai đi nữa thì người nói xấu vẫn có thể chứng minh thái độ ngay tình, ý tốt của anh ta (hay chị ta) muốn thông tin, cảnh báo thiên hạ về một mối hiểm nguy.

2) Để tạo mối giao tiếp xã hội (pour créer un lien social)
Kẻ nói xấu cố tạo cho họ một cái vỏ thiện cảm: các lời chỉ trích của hắn ta đều có vẻ có ích lợi. Nó chứng tỏ hắn ta cũng biết được một cái gì đó ở nạn nhân với ngụ ý là hắn ta khá hơn người đó rất nhiều.

Nói xấu người khác, có nghĩa gián tiếp là mình nói điều tốt về mình và cả cho những người chịu nghe mình kể.
Sau những câu nói xấu đều có tiềm ẩn cái ý sau đây: Tôi kể cho bạn nghe chuyện đó vì tôi không phải là hạng người như thế và cũng tại vì tôi biết các bạn cũng không phải như vậy.

3) Vì họ thiếu lòng tự trọng (manque d’estime de soi)
Tại sao không tạo mối giao tiếp xã hội bằng cách kể những chuyện có tính cách tốt và xây dựng? Theo nhà tâm lý học Isabelle Filliozat: «kẻ nói xấu người khác có cảm giác là hắn ta chẳng có cái gì riêng tư để kể hết». Hắn ta nói chuyện về một người bạn láng giềng, về một người đồng nghiệp vì không còn chuyện nào khác để kể, vì hắn nghĩ rằng nếu đem chuyện mình ra kể thì chả có gì hấp dẫn hết.
Những lời nói xấu nhắm vào người khác là một báo hiệu của một tình trạng tuyệt vọng (détresse) của một người không còn lòng tự tin và tự trọng nữa (confiance et estime de soi).

4) Vì họ thích nói xấu người khác (par envie)
Thiếu lòng tự tin vào chính mình sẽ kéo theo tình trạng họ không dám tự khẳng định (s’affirmer).
Trong đời sống, họ luôn luôn mang tâm trạng tức giận, bực bội và từ đó tạo nên sự giận dữ.

Nếu họ nhìn nhận là họ tức giận thì đó chẳng khác nào họ xác nhận sự yếu hèn của họ hay sao?
Ngưòi ta thường nói sự tức giận là vũ khí của kẻ hèn yếu (la colère est l’arme des faibles).
Vì vậy, từ vô thức họ chĩa mũi dùi vào người khác, đặc biệt là vào những người tài giỏi, những người thành công và may mắn hơn họ. «Thằng đó có tài nghệ gì đâu. Chức giám đốc của nó chẳng qua là do chạy chọt đút lót, nhờ phe đảng, nhờ quen lớn mà thôi… »

5) Vì phóng chiếu (par projection)
Trong nhiều trường hợp khác, họ nói những gì mà họ ghét và khinh tỡm nhất trong chiều sâu của họ. Thí dụ: Bà đó tham lam quá, thằng đó có tính quá tự ngã trung tâm (égocentrique). Nó tưởng nó là trung tâm của vũ trụ.

Theo nhà phân tâm học Philippe Grimbert :  « Mình sẽ phịa ra hay chỉ đích danh cho mọi người biết những nét mà mình không ưa, mình không chịu đựng được vì đó chẳng qua là những khía cạnh mình đang mang trong người mà chính mình cũng không có thể nào chấp nhận được. »

Sự nói xấu dựa trên hiện tượng tâm lý học gọi là phóng chiếu: mình gán cho người khác một phần của chính mình mà mình từ chối không chấp nhận hay mình ý thức rằng không thể nào nhận biết nó được..
Dans d’autres cas, au contraire, on parlera beaucoup de ce qui nous rebute profondément : « Celui-là est un égocentrique », « Celle-là est radine »… « On va inventer ou montrer du doigt chez autrui des traits de caractère que l’on ne supporte pas, parce que ce sont justement des aspects que l’on possède en soi et que l’on ne peut accepter », explique le psychanalyste Philippe Grimbert. La médisance repose alors sur un phénomène dit de projection : on attribue à l’autre une part de soi-même que l’on refuse ou que l’on est consciemment incapable de reconnaître.

Kết luận
Tây phương có câu: Nếu không nói ra được những điều gì tốt đẹp thì tốt hơn hết là đừng nên nói gì hết.
(If you can’t say something nice, don’t say anything at all).

Theo Phật giáo, người biết đạọ phải giữ tâm trong Bát chánh đạo, không nghĩ xấu, nói xấu, nói lén người khác.
“Bát chánh Đạo là con đường chánh tám ngành đưa đến Niết-bàn giải thoát, còn gọi là Bát Thánh đạo, Bát chi chánh đạo, Bát thánh đạo phần, Bát đạo hành, Bát trực hành, Bát chánh, Bát đạo, Bát chi, Bát pháp, hay Bát lộ.
Bát chánh đạo gồm có tám chi sau:
Chánh kiến thấy đúng.
Chánh tư duy suy nghĩ đúng.
Chánh ngữ nói đúng.
Chánh nghiệp làm việc đúng.
Chánh mạng sống đúng.
Chánh tinh tấn siêng năng đúng.
Chánh niệm nhớ đúng.
Chánh định tập trung đúng“

Nguyễn Thượng Chánh


23/10/2019

Vén màn bí ẩn về nữ vệ binh Israel mang súng diện bikini mát mẻ










  





Nếu khi đến Israel bạn thấy các cô gái mặc bikini và cười nói trên bãi biển Tel Aviv hay đứng trong quầy bar nhưng vẫn khoác trên mình khẩu súng trường tự động, thì đừng hoảng sợ vì họ chỉ đang thực hiện nghĩa vụ.

Có lẽ trong phần lớn ấn tượng của mọi người, Mỹ là nơi kiểm soát súng lỏng lẻo nhất trong tất cả các quốc gia trên thế giới, nhưng mọi người thường bỏ qua tỷ lệ mang súng của người Israel. Ở hầu hết mọi nơi trên đất nước này, người ta đều có thể thấy người Israel với súng trường sau lưng “lắc lư đi dạo phố”, trong số đó có rất nhiều phụ nữ trẻ xinh đẹp. Trên thực tế, chuyện mang súng bên mình của các cô gái người Israel có những lý do riêng của họ. Ảnh: Các nữ binh sĩ Israel sát cánh cùng các nam đồng nghiệp đảm đương mọi nhiệm vụ trong quân đội.

Những cô gái Israel đang đeo súng này hầu như đều là những phụ nữ đang hoặc đã phục vụ trong quân đội thường trực Israel. Theo quy định của Luật Quốc phòng Israel, ngay cả trong thời gian không làm nhiệm vụ, tất cả binh sĩ Israel đang tại ngũ và trong ngạch dự bị đều phải luôn mang theo súng bên mình. Đây chính là lý do trực tiếp khiến các cô gái Israel phải đeo súng trường khi đang mặc bikini.

Súng trường gần như đã trở thành trang bị tiêu chuẩn của nữ quân nhân Israel. Trên mạng xã hội đầy các bức ảnh của các cô gái Israel chụp khoe bản thân, một bên với trang bị vũ khí đầy đủ và một bên là trong trang phục mát mẻ vào mùa hè. Có thể khi xem những tấm hình này, sẽ có người không hiểu: những cô gái này ăn mặc theo thể thống gì vậy? Làm sao có được sức chiến đấu khi chụp những bức ảnh như thế mỗi ngày? Mong các nhà chức trách Israel có liên quan hãy quản chặt họ…

Thực tế hoàn toàn ngược lại! Để thu hút nhiều phụ nữ trẻ tham gia quân đội, quân đội Israel đã khuyến khích các nữ quân nhân đang tại ngũ post những bức ảnh “mát mẻ nhất” lên các trang mạng xã hội để thể hiện bộ mặt tinh thần tốt đẹp của lực lượng quốc phòng Israel. Năm 2007, Lãnh sự quán Israel tại New York đã cho đăng 5 bức ảnh cực kỳ quyến rũ của các nữ quân nhân Israel trên tạp chí nam nổi tiếng Maxim của Mỹ, khiến dư luận dậy sóng…

Trên Internet, có những lời bình luận rằng “Gái Do Thái kỳ dị, không thích trang điểm thích súng ống”, nhưng vẻ đẹp quyến rũ của thân hình các cô gái Israel quả thật đã khiến cho giới mày râu đứng ngồi không yên. Vào ngày 18/8/1948, Thủ tướng Israel David Ben-Gurion đã ra lệnh tuyển dụng phụ nữ độc thân và phụ nữ có chồng mà chưa có con (sinh từ năm 1920 đến 1930) vào quân đội. Từ đó, phụ nữ Israel đã chính thức trở thành một bộ phận của quân đội thường trực Israel và dần dần phát triển, thực sự đã thành “một nửa bầu trời” trong quân đội.

Cho đến nay, lính nữ chiếm khoảng 34% tổng quân số quân đội thường trực và 57% số sĩ quan quân đội; có tới 92% vị trí trong quân đội mở cửa đối với phụ nữ Israel – đây là điều có một không hai trên toàn thế giới, không có ở bất cứ quốc gia nào khác. Tương tự, theo thống kê của Quân đội Quốc gia Israel, trong hơn nửa thế kỷ từ 1962 đến 2016, đã có 535 nữ binh sĩ Israel hy sinh trong các hoạt động chiến đấu (con số này không bao gồm hàng chục nữ quân nhân đã thiệt mạng trong quân đội Israel trước năm 1962).

Là một quốc gia nhỏ với dân số chỉ 8,5 triệu người, lãnh thổ chỉ rộng hơn 10.000 km2 và bị kẹp giữa một số nước Ả Rập thù địch, quốc phòng là nền tảng lập quốc của Israel. Kể từ khi thành lập đất nước vào năm 1948 đến nay, Israel đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh quy mô lớn và có tới mấy lần đứng bên bờ vực đất nước diệt vong. Điều này khiến người Israel rất coi trọng quân nhân.

Có lẽ sẽ có người đặt câu hỏi, tại sao những người vẫn còn là trẻ em chỉ mới 18 tuổi, lại sẵn sàng tham gia quân đội? Điều này không tách rời khỏi việc giáo dục lòng yêu nước và giáo dục quốc phòng ở Israel. Từ khi bắt đầu vào bậc trung học (phổ thông cơ sở), mọi trẻ em Israel đều được nghiên cứu lịch sử phục quốc của người Do Thái rất chi tiết. Các em cũng sẽ bắt đầu học hỏi từ nhiều khía cạnh về việc dân tộc mình đã bị lưu lạc và phải chịu đựng những khổ nạn như thế nào. Trong quá trình này, trẻ em cũng đồng thời được học các môn học giáo dục quốc phòng có liên quan, như lịch sử chiến đấu của quân đội, kỷ luật quân đội và thậm chí cả chiến lược quân sự.

Khi các thanh niên Israel trở thành tân binh theo pháp lệnh quốc gia, có một hoạt động không thể thiếu là đến thăm Bức tường Than khóc và Đài tưởng niệm vụ thảm sát Holocaust ở Jerusalem. Các tân binh sẽ đến Bức tường Than khóc trong đội ngũ chỉnh tề và lắng nghe sĩ quan hướng dẫn kể về lịch sử đau thương người Do Thái không chốn nương thân suốt hai nghìn năm, thánh đường bị phá hủy và cả dân tộc phải lưu lạc khắp nơi. Nhờ hệ thống phòng thủ quốc gia hoàn chỉnh và nền giáo dục quốc phòng đã đi sâu vào lòng người dân mà Israel đã hình thành một mô thức chiến đấu “toàn dân đều là lính”.

Cả nước Israel được chia thành 14 khu vực động viên, mỗi khu vực có các điểm tập kết và kho vũ khí quân dụng. Mỗi khu vực có thể có một hoặc hai lữ đoàn quân dự bị. Sau khi bước vào thế kỷ 21, Quân đội Quốc gia Israel đã thiết lập các binh trạm trên khắp thế giới để chuẩn bị nếu cuộc xung đột với người Palestine leo thang thành một cuộc chiến tranh quy mô lớn trên thế giới thì người Do Thái trên khắp nơi có thể tham gia chiến đấu được ngay. Với cách giáo dục như vậy, một dân tộc như vậy, kỷ luật như vậy, đã tạo nên một quân đội giống như sắt thép.

Vào ngày 6/10/1973, các quốc gia Ả Rập do Ai Cập, Syria đứng đầu và quân du kích Palestine nhân “Ngày lễ Rửa tội” của Do Thái giáo đã tiến hành một cuộc đột kích vào Israel. Quân đội Israel lúc đầu lâm vào tình trạng hỗn loạn chưa từng có, thậm chí quân đội Ai Cập đã đuổi được người Israel ra khỏi bán đảo Sinai. Quân đội Ả Rập trên tất cả các mặt trận cũng đã phá vỡ tuyến phòng thủ của quân đội Israel. Mười lăm phút sau khi chiến tranh bùng nổ, Đài phát thanh Israel đã công bố các mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng và thông báo qua điện thoại, điện báo, thư, đài phát thanh… yêu cầu tất cả các quân nhân ngạch dự bị ngay lập tức đến các địa điểm được chỉ định.

Ảnh: Tổng thống Mỹ (giữa) và Thủ tướng Israel (trái), Tổng thống Ai Cập (phải) gặp nhau ký kết Hiệp ước hòa bình Trại David sau Chiến tranh Ngày lễ Rửa tội năm 1973

Trong vòng bốn mươi tám giờ sau khi chiến tranh bùng nổ, số lượng binh sĩ dự bị được huy động lên tới 330.000 và tổng binh lực đã trực tiếp tăng từ 120.000 trước chiến tranh lên 450.000 quân. Đồng thời, các nhà máy sản xuất ô tô và máy bay cũng nhanh chóng chuyển từ dân sự sang quân sự; các nhân viên kỹ thuật công trình và nhân viên sửa chữa cũng lần lượt đi ra tiền tuyến. Israel nhanh chóng đảo ngược cục diện chiến tranh và kết thúc chiến tranh với phần thắng chỉ sau 20 ngày. Sau chiến tranh, tổng thống Ai Cập đã bị áp lực chính trị trở thành nhà lãnh đạo Ả Rập đầu tiên đến Israel để ký “Hiệp ước trại David” với sự chắp nối của Hoa Kỳ – đó là kết quả chung cuộc của cuộc Chiến tranh Trung Đông lần thứ tư (Chiến tranh Ngày Rửa tội).

Hai ngàn năm trước, Masada, được coi là thánh địa của người Do Thái, đã bị người La Mã chiếm giữ và 960 người gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em trong thành phố đã tự sát. Từ đó trở đi, dấu chân của người Do Thái biến mất khỏi Vùng Đất Hứa (Promised Land) và bắt đầu một cuộc lưu đày khắp thế giới trong hai ngàn năm. Hai ngàn năm sau, người Do Thái trên thế giới đã quay trở về vùng đất theo dấu chân của tổ tiên, ngay trước mắt của người Ả Rập và tạo lập nên bầu trời và mặt đất riêng.

Ý thức khủng hoảng, ý thức hoạn nạn, tinh thần dân tộc, giáo dục quốc phòng, v.v., chạy xuyên suốt lịch sử của dân tộc Do Thái, cùng với sự phát triển của nhà nước Israel. Các thế hệ thanh niên Israel, đặc biệt là phụ nữ trẻ, đã không quay lưng lại với doanh trại quân đội; giống như những người đàn ông, các nữ vệ binh Israel cũng lái máy bay, điều khiển xe tăng và chiến đấu với kẻ thù bằng chính thân mình.

Cuộc sống quân ngũ là tuổi trẻ của các cô gái Israel và tuổi trẻ của hầu hết những người trẻ tuổi ở Israel.
ST

22/10/2019

NGƯỜI SỐNG THỌ KHÔNG PHẢI DO ĂN UỐNG HAY VẬN ĐỘNG....


Bà Elizabeth H. Blackburn, người đoạt giải Nobel sinh học đã chỉ ra rằng người ta sống thọ hay khỏe mạnh không phải do Ăn Uống tẩm bổ hay Vận Động tích cực; mà là do giữ được Tâm Lý Cân Bằng.

 Lấy việc giúp đỡ người khác làm niềm vui :
Nghiên cứu chỉ ra, giúp đỡ người khác về vật chất, có thể giảm tỉ lệ
tử vong xuống 42%, giúp người khác ổn định tinh thần, có thể giảm tỉ lệ tử vong dưới 30%. Bởi vì tốt với người khác, hay làm việc thiện, sẽ có cảm giác vui tươi và tự hào, giảm hormone áp lực, thúc đẩy hormone hưng phấn…

 Giữ mối tương giao lành mạnh.
Một công trình nghiên cứu trong vòng 20 năm của 2 nhà tâm lý người Mỹ đã cho thấy trong số các nhân tố quyết định tuổi thọ, đứng số 1 là " quan hệ tốt giữa người với người ".. Họ cho rằng, quan hệ con người với con người quan trọng hơn dinh dưỡng, hơn cả việc thường xuyên luyện tập trong thời gian dài. Mối tương giao giữa người với người không chỉ bao gồm bạn bè, còn bao gồm quan hệ gia đình. Vì thế, gia đình hòa thuận, bạn bè tốt là một trong những yếu tố quyết định tuổi thọ con người.

 Cho đi điều thiện sẽ nhận lại điều thiện.
Khi chúng ta cười với người khác, người khác cũng sẽ cười lại với
chúng ta. Bất luận là ở cùng bạn bè hay là cùng những người bạn cũ trò 
chuyện, hãy nhớ luôn giữ nụ cười, cho đi niềm vui.

ST

21/10/2019

Ngắm ảnh khỏa thân trên đá của nghệ sĩ nhiếp ảnh Thái Phiên

'Cách đây nhiều năm, tôi tặng ảnh cô gái khỏa thân cho một người bạn thân khi bạn ấy ngỏ ý rất thích bức ảnh đó. Sau này, tôi phát hiện người ấy treo bức ảnh trong nhà tắm của anh'.

Hồn đá - triển lãm ảnh khỏa thân nghệ thuật của nghệ sĩ nhiếp ảnh Thái Phiên in trên đá đang diễn ra tại Hội mỹ thuật TP.HCM đến ngày 26-10. Có 102 tác phẩm được anh giới thiệu đến công chúng lần này, trong đó có những tác phẩm lần đầu ra mắt.
Trao đổi với Tuổi Trẻ Online, nghệ sĩ Thái Phiên cười, kể chuyện vui: "
Tôi không cho rằng việc treo ảnh trong nhà tắm làm giảm đi giá trị nghệ thuật của bức ảnh nhưng tôi muốn chúng được trưng bày ở những nơi được nhiều người thưởng thức hơn. Vì thế, tôi quyết tâm thực hiện dự án Đưa ảnh khỏa thân nghệ thuật từ phòng ngủ ra phòng khách".












Theo TTO

17/10/2019

Mật mã của hạnh phúc



Hạnh phúc là một đề tài luôn khiến cho con người mơ hồ, hạnh phúc rốt cuộc là gì? Mỗi một người có một cách lý giải định nghĩa hạnh phúc khác nhau. Giới khoa học cũng không ngừng khám phá…

Tiến sĩ Howard Dickinson tại khoa triết học của trường đại học Columbia đã tiến hành khảo sát với 121 người tự xưng là hạnh phúc nhất thế giới. Cuối cùng đưa ra kết quả là trên thế giới này có hai loại người hạnh phúc nhất: Một là những người bình thường sống đạm bạc yên tĩnh, hai là những người nổi tiếng thành công. Hai mươi năm sau, ông lại một lần nữa phỏng vấn 121 người này, kết quả khiến cho ông rơi vào trầm tư suy nghĩ…
Hạnh phúc của một người phụ thuộc vào điều gì?

Tháng 4 năm 1988, Howard Dickinson 24 tuổi. Đề mục luận văn tốt nghiệp của ông có tên là “Hạnh phúc của con người phụ thuộc vào điều gì?”
Vì muốn hoàn thành đề mục này ông đã phân phát 10.000 bảng câu hỏi cho người dân trong thành phố, trên đó có ghi chi tiết dữ liệu định danh cá nhân, còn có năm hạng mục trắc nghiệm:
1.    Vô cùng hạnh phúc
2.    Hạnh phúc
3.    Bình thường
4.    Thống khổ
5.    Vô cùng thống khổ

Trong hơn hai tháng, cuối cùng Howard Dickinson đã thu hồi được hơn 5.200 bảng câu hỏi hợp lệ. Sau khi thống kê, chỉ có 121 người nghĩ rằng họ vô cùng hạnh phúc. Howard Dickinson tiến hành một cuộc khảo sát và phân tích chi tiết về 121 người này. Ông thấy rằng 50 trong số 121 người này là những người thành công trong thành phố và hạnh phúc của họ chủ yếu là do thành công trong sự nghiệp mang đến. 71 người khác là bà nội trợ bình thường, nông dân bán rau, nhân viên nhỏ trong công ty, và thậm chí là những người vô gia cư đã nhận được trợ cấp. Những người có cuộc sống bình thường đạm bạc này làm thế nào có thể sở hữu hạnh phúc lớn lao đến thế?

Qua điều tra thực tế của tiến sỹ Howard Dickinson thì điều kiện sống của 121 người rất khác nhau, khiến ông cảm thấy rất thú vị.
Qua nhiều lần tiếp xúc và trao đổi với những người này, Howard Dickinson phát hiện rằng, mặc dù nghề nghiệp của họ đa dạng bất đồng nhưng bản thân họ lại có một điểm chung. Đó chính là họ không có yêu cầu quá cao hoặc quá nhiều đối với vật chất. Họ sống rất đơn giản và yên bình, vừa lòng với hiện tại. Kết quả của cuộc khảo sát này khiến Howard Dickinson rất hứng khởi, vì vậy ông đã viết ra tổng kết luận văn như thế này:
 “Trên thế giới này có hai loại người hạnh phúc nhất:
Một là những người sống đạm bạc yên bình, hai là những người thành công nổi tiếng.
Nếu như bạn là một người bình thường, thì thông qua việc tu luyện nội tâm, giảm bớt dục vọng bạn cũng có thể đạt được hạnh phúc. Nếu như bạn là một người thành công nổi tiếng thì bạn có thể thông qua việc chăm chỉ, biết  thời cơ mà đạt được thành công trong sự nghiệp và thứ hạnh phúc lớn lao nhất.”
Sau khi giáo sư nhìn thấy luận văn của Howard Dickinson đã vô cùng tán thưởng, phê một chữ “xuất sắc” thật lớn. Sau khi tốt nghiệp, Howard Dickinson ở lại trường giảng dạy. Thoáng chốc đã hơn hai mươi năm trôi qua, hôm nay Howard Dickinson đã trở thành một giáo sư nổi tiếng ở Mỹ.

Vào tháng 6 năm 2009, nhân một cơ hội ngẫu nhiên, ông đã lật lại luận văn tốt nghiệp năm đó. Ông rất hiếu  kỳ không biết điều gì đã xảy ra với những người cảm thấy mình “vô cùng hạnh phúc” năm đó? Có phải họ vẫn cảm thấy bản thân rất hạnh phúc hay không? Ông tìm lại địa chỉ liên lạc của những người đó, mất hơn ba tháng một lần nữa làm điều tra. Kết quả 71 người bình thường năm đó trừ hai người qua đời tổng cộng thu lại được 69 phần bảng câu hỏi.

Những năm gần đây, cuộc sống của sáu mươi chín người này xảy ra nhiều biến hóa: Một số người trong số họ đã nằm trong hàng ngũ những người thành công, những người khác vẫn sống những ngày bình thường, và số còn lại đang sống trong khó khăn do bệnh tật và tai nạn. Tuy nhiên, đáp án của họ vẫn như ngày nào, cảm thấy bản thân “vô cùng hạnh phúc”.
Ngược lại, 50 người thành công nổi tiếng trước kia lại xảy ra biến hóa cực lớn. Trong đó chỉ có 9 người vẫn lựa chọn giống như lúc đầu, bởi vì sự nghiệp của họ vẫn thuận lợi. Có 23 người lựa chọn “bình thường”, 16 người sự nghiệp xuống dốc hoặc phá sản lựa chọn “thống khổ”, 2 người còn lại lựa chọn “vô cùng thống khổ”.

Lật lại cuộc điều tra sau 20 năm, kết quả đã có sự thay đổi đáng kể khiến tiến sỹ Howard Dickinson không khỏi trầm tư suy nghĩ…
Nhìn vào kết quả như vậy, Howard Dickinson rơi vào trầm tư vài ngày, hai tuần sau, Howard Dickinson viết một luận văn mới đăng trên tờ báo “The Post” với tiêu đề “Mật mã hạnh phúc”. Trong luận văn của mình, Howard Dickinson đã trình bày chi tiết về quá trình và kết quả của hai cuộc khảo sát.
Cuối cùng ông tổng kết : "Tất  cả cảm giác hạnh phúc dựa trên vật chất đều không thể kéo dài, nó sẽ biến mất khi vật chất biến mất. Chỉ có sự yên bình và tĩnh lặng trong tâm hồn, niềm vui được sinh ra từ thân tâm mới thật sự là hạnh phúc”.

Vô số người sau khi xem xong phần luận văn này đều kinh ngạc thốt lên: “Howard Dickinson đã phá giải mật mã của hạnh phúc!”. Bài viết này thu hút sự chú ý rộng rãi, tờ báo “The Post” phải in sáu lần trong một ngày.
Trong một cuộc phỏng vấn với giới truyền thông, Howard Dickinson tâm sự rằng: “Hơn hai mươi năm trước, tôi còn quá trẻ nên đã lý giải sai hàm nghĩa chân chính của “hạnh phúc”. Hơn nữa, tôi còn đem quan niệm “hạnh phúc” không chính xác này truyền đạt cho rất nhiều học sinh của tôi. Hôm nay ở đây, tôi xin chân thành gởi lời xin lỗi đến tất cả học sinh của tôi, cũng xin lỗi “hạnh phúc”. Tất cả cảm giác hạnh phúc dựa trên vật chất đều không thể kéo dài, nó sẽ biến mất khi vật chất biến mất. Chỉ có sự yên bình và tĩnh lặng trong tâm hồn, niềm vui được sinh ra từ thân tâm mới thật sự là hạnh phúc”.
Tất cả những chuyện bi thảm đều có liên quan đến tiền bạc, tất cả những chuyện hạnh phúc đều không liên quan gì đến bạc tiền.

Theo Soundofhope
Khải Phong biên dịch

Hàng triệu đàn ông Việt Nam có nguy cơ ‘ế vợ’

 Sẽ có hàng triệu đàn ông Việt Nam nguy cơ ế vợ. (Hình: VietNamNet)


Với 55/63 tỉnh, thành đang có tỉ lệ “mất cân bằng giới tính khi sinh ở mức báo động” và hiện đang tiếp tục gia tăng, từ năm 2020 trở đi, 4 triệu đàn ông Việt Nam có thể “ế vợ.”
Báo Người Lao Động dẫn số liệu mới nhất của Tổng Cục Dân Số tại “Hội Nghị Tập Huấn Truyền Thông Về Công Tác Dân Số” tổ chức ở Hà Nội hôm 10 Tháng Mười, 2019, cho thấy 55 trong số 63 tỉnh thành ở Việt Nam có sự chênh lệch giới tính, trung bình tỷ lệ giới tính khi sinh với 114.8 nam/100 nữ.
Với tỷ lệ này, Việt Nam hiện nằm trong nhóm 15 nước có tình trạng “mất cân bằng giới tính khi sinh” cao nhất, là đại diện duy nhất ở Đông Nam Á và đứng thứ hai Châu Á, chỉ sau Trung Quốc.
Nói tại hội nghị, Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Đình Cử – Viện Nghiên Cứu Dân Số, Gia Đinh và Trẻ Em – cho biết: “Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam đã ở mức nghiêm trọng.”
Theo ông Cử, một điều tra cho thấy 86.7% phụ nữ thành thị biết giới tính thai nhi. Ở nông thôn, tỷ lệ này là 78.9%. Với các gia đình khá giả hay giàu có, tâm lý mong muốn và can thiệp để có con trai cũng rất cao. Điều đáng nói là tình trạng biết giới tính thai nhi này lại ngày càng phổ biến, mặc cho nhà nước có quy định về việc cấm tiết lộ giới tính khi siêu âm lúc mang thai.
“Với hôn nhân ‘một vợ, một chồng’ trong khi thừa nam, thiếu nữ, hàng triệu nam giới sẽ phải sống độc thân khiến cấu trúc gia đình vợ-chồng, cha mẹ-con cái bị phá vỡ. Do nam giới không thể kết hôn hoặc kết hôn muộn, tình trạng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân sẽ tăng. Nạn lừa đảo, bắt cóc, buôn bán phụ nữ đã xảy ra và có thể sẽ tăng,” ông Cử cảnh báo.

Tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam hiện là gần 115 bé trai/100 bé gái. (Hình: Người Lao Động)

Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, phó tổng cục trưởng Tổng Cục Dân Số Kế Hoạch Hóa Gia Đình, Bộ Y Tế, cho biết nếu thực trạng mất cân bằng giới tính, còn tiếp diễn như hiện nay thì khoảng 30 năm sau, Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự chênh lệch giới tính nam hơn nữ khoảng trên 10%. Dự trù năm 2050, Việt Nam sẽ thiếu khoảng 4.3 triệu nữ giới. Việc mất cân bằng này đồng nghĩa với chuyện vài triệu nam giới có thể sẽ không lấy được vợ, kéo theo hệ lụy về nguy cơ kết hôn nhiều lần, tệ nạn mại dâm…
Thừa nhận thực trạng này, ông Nguyễn Doãn Tú, tổng cục trưởng Tổng Cục Dân Số Kế Hoạch Hóa Gia Đình, cho rằng trong thời gian ngắn, rất khó để giảm tỉ số giới tính khi sinh do tâm lý “ưa thích con trai” của người Việt vẫn còn rất nặng nề.
“Việt Nam đã và đang thực hiện một số biện pháp nhằm xóa bỏ vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh. Tuy nhiên, cần tăng cường hơn nữa cơ chế phối hợp liên ngành và thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức xã hội, bao gồm cả những nỗ lực nhằm giải quyết phân biệt đối xử đối với phụ nữ và trẻ em gái, nguyên nhân chính dẫn đến việc lựa chọn giới tính trước sinh,” ông Tú nói. (Tr.N)