Hình minh họa
Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui.
Sinh con mới ra thân người,
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.
Đây
có lẽ là áng văn hay nhất mà ta có thể tìm được để đọc và hiểu tư tưởng Việt
Nam về hôn nhân và gia đình. Hôn nhân đặt căn bản ở đâu ? Có mục đích gì
? Gia đình có sứ mệnh nào ? Mục đích gì ?
Đó là bốn câu hỏi chính mà, nếu đọc kỹ bài thơ trên, ta sẽ tìm được nhiều
yếu tố trả lời rất sâu xa, chắc chắn, vắn gọn và súc tích, chuyên chở những nét
đặc trưng căn bản của văn hoá gia đình Việt Nam.
Bốn
câu thơ được diễn tả dưới thể thơ lục bát, là thể văn thông dụng nhất và bình
dân nhất của thơ văn Việt Nam : tư tưởng bình dân được diễn tả qua thơ bình
dân.
Bốn
câu thơ chuyên chở bốn ý tưởng lớn và chỉ dùng thể khẳng định, giống như những
phán quyết chắc chắn. Một liên từ, liên từ ‘mới’, co tính cách lý luận.
Liên từ này nối hai câu đầu với hai câu sau. Tư tưởng đầu tiên ‘Vợ chồng là
nghĩa tào khang’ là một phán quyết khẳng định như là một sự thật hiển
nhiên. Tư tưởng thứ hai ‘Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui’ là một
mệnh lệnh có tính cách luân lý. Như có ý bảo : chồng phải hoà, vợ phải thuận ,
nhà phải thường và tất cả phải yên vui. Nói theo kiểu toán học, thì tư tưởng
thứ nhất ‘Vợ chồng là nghĩa tào khang’ là một định lý. Tư tưởng thứ hai
‘Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui’ là một định đề. Cả hai tư tưởng
làm lên phần thứ nhất của bài thơ và là tiền đề lý luận để đi đến luận chứng
của phần thứ hai, hậu quả của phần thứ nhất. Có hai hậu quả. Hậu quả thứ nhấ là
‘Sinh con mới ra thân người’. Và hậu quả thứ hai là ‘Làm ăn thịnh
vượng đời đời ấm no’.
Dùng
phương pháp giảng văn[], sau đây tôi sẽ phân tích từng vế, từng câu, từng chữ
bài thơ hầu đọc kỹ bài thơ để tặng các đôi bạn đang lên đường vào hôn nhân và
biếu các cha mẹ đã trải qua một chặng đường gia đình[].
I. HÔN NHÂN
Vợ
chồng là nghĩa tào khang
Chồng
hoà vợ thuận nhà thường yên vui
Chúng
ta hãy khởi sự phân tích hai câu thơ đầu, cũng là phần thứ nhất của bài thơ.
1. Vợ chồng là nghĩa tào khang
Vợ
chồng
là sự nối kết giữa hai người nữ nam bằng tình dục và tình yêu, qua hôn nhân, để
cùng chung sống với nhau, cùng chia sẻ và cùng giúp đỡ lẫn nhau.
Vợ là người đàn bà có
chồng. Người đàn bà có chồng là người đàn bà nối kết và ăn ở với người đàn ông
bằng tình yêu và tình dục một cách công khai qua hôn nhân. Người vợ khác với cô
bồ, khác với người tình nhân. Cô bồ và người tình nhân chỉ là những người đàn
bà thương yêu người đàn ông, hoặc được người đàn ông thương yêu. Người vợ cũng
khác với gái hoang, gái điếm, và người đàn bà ngoại tình, dâm phụ. Những người
này chỉ là những người đàn bà nối kết với người đàn ông bằng tình dục ngoài hôn
nhân.
Chồng là người đàn ông có
vợ. Người đàn ông có vợ là người đàn ông nối kết và ăn ở với người đàn bà bằng
ái tình và tình dục một cách công khai qua hôn nhân. Người đàn ông yêu người
đàn bà không qua hôn nhân gọi là người lãng mạn . Và người đàn ông làm tình với
người đàn bà ngoài hôn nhân gọi là gã sở khanh, đứa điếm đàng hay kẻ gian phu.
Vợ
chồng, như vậy, là một định chế xã hội, cũng gọi là hôn nhân, để chính thức và
công khai chấp nhận nhu cầu tình yêu và tình dục của một người nam, con trai và
một người nữ, con gái.
Vợ
chồng là một trong năm đẳng cấp xã hội cổ truyền. Nếu đạo quân thần trọng ở chữ
trung, đạo phụ tử nặng ở chữ hiếu, cũng như đạo huynh đệ quí ở chữ đễ và đạo
bằng hữu nặng ở chữ tín, thì đạo vợ chồng sâu ở chữ nghĩa. Đó là ý nghĩa của
thành ngữ ‘Nghĩa tào khang’.
Nghĩa là một trong năm đức
thường của người ta. Đó là nhân, nghĩa, lễ, trí và tín. Ngược với chữ lợi, chữ
nghĩa chỉ đức tính tốt, làm theo điều phải. Chữ nghĩa hàm chứa tính cách bất vụ
lợi như ‘nghĩa cử’, tính cách trung thành và hy sinh như ‘nghĩa bộc’, ‘nghĩa
tử’, ‘nghĩa hữu’, tính cách khí khái, hăng hái, dấn thân như ‘nghĩa khí’. Trong
mạch văn ‘Vợ chồng là nghĩa tào khang’, mà vợ chồng là một định chế, chữ
‘nghĩa’ là đức tính căn bản của vợ chồng, đã được dùng để định nghĩa cho
hôn nhân. Nó là một tương quan trong năm tương quan: Trung, Hiếu, Nghĩa, Đễ,
Tín. Nó là một định chế trong năm định chế: Quân-Thần, Phụ-Tử, Phu-Phụ,
Huynh-Đệ, Bằng-Hữu. Chữ ‘nghĩa’ ở đây bao hàm ý nghĩa của một định chế tốt,
phải đạo, được xã hội công nhận.
Tào khang là một từ ngữ rút ra từ
câu trả lời của Tống Hoàn Công cho vua Quang Võ. Số là vua Quang Võ có ngưới em
gái goá chồng, tên là Hồ Dương công chúa. Bà này đem lòng yêu thương quan Tống
Hoàn Công và nhờ anh là vua Quang Võ dạm hỏi, mối mai. Vua Quang Võ bèn kiếm
dịp gạ hỏi xem ý Tống Hoàn Công thế nào. Ngày kia, vua hỏi Tống Hoàn Công rằng:
‘Trẫm nghe thiên hạ nói giầu đổi bạn, sang đổi vợ. Vậy ý khanh thế nào?
Tống hoàn Công là người có nghĩa, có đức độ và đã có vợ, lấy nhau từ thuở hàn
vi, bèn trả lời rằng: ‘Tào khang chi thê bât khả hạ đường, bần tiện chi giao
mạc khả vong’, nghĩa là vợ chồng lấy nhau từ lúc khổ cực chẳng nên bỏ, bạn
bè kêt giao từ thuở nghèo hèn chẳng nên mất. Tào khang dịch là khổ cực là dịch
theo nghĩa bóng. Nghĩa đen ‘tào’ là cái máng, cái chậu cho súc vật ăn, ‘khang’
là cám gạo. Có người đọc chữ ‘tào’ là ‘tao’. Chữ nho là một chữ. Nhưng dịch
sang chữ việt, ‘tao’ có nghĩa là cái hèm rượu. Xét ra ít hợp lý hơn là chữ
‘tào’.
‘Nghĩa tào khang’, nhu vậy, là môt định chế phải đạo, lấy sự hy
sinh, trung tín, chung thuỷ làm đầu.
‘Vợ chồng là nghĩa tào khang’, bởi vây, là một định nghĩa vừa
sát thực, vừa lý tưởng. Sát thực, vì vợ chồng là môt định chế mà xã hội chính
thức và công khai cho phép và công nhận nam nữ yêu thương và ái ân, thoả mãn
hai nhu cầu tình yêu và tình dục. Lý tưởng, vì định chế vợ chồng buộc hai người
nam nữ đã nối kết ăn ở và gắn bó phải chung thủy với nhau, lúc hèn cũng như lúc
sang, lúc nghèo cũng như lúc giầu, lúc cực cũng như lúc sướng. Lý tưởng này
cũng là mục tiêu thứ nhất của hôn nhân vợ chồng.
2. Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui
Chồng hoà là chỉ cách cư xử chính
yếu của người chồng. Chữ ‘hoà’ trước nhất có nghĩa là vừa phải, không quá trớn
như ‘điều hoà’, không có cạnh tranh xung đột như ‘hoà bình’, ‘hoà thuận’. Chữ
‘hoà’ đây có tương quan chặt chẽ với chữ ‘trung dung’. Trung dung là sách của
thày Tử Tư, dạy cách cư xử theo lẽ phải. Cái lẽ phải không thể định trước được,
mà phải tùy theo việc, làm cho hợp với thời thế, với nhân sinh và với lương tâm
của mình. Quá cái lẽ phải, đó là thái quá. Chưa đúng với lễ phải, đó là bất
cập. ‘Hoà nhi bất đồng’ hoà hợp với mọi người mà không đồng hoá với ai, đó
là tôn chỉ của chữ ‘hoà’. ‘Thiên thời, địa lợi, nhân hoà’ vừa là chiến lưôc
quản lý của Tôn Tử, vừa là kết quả của cách cư xử ’hoà’ vậy. Đó là trên thì hợp
ý trời, dưới thì được may mắn thuận lợi, và với mọi người thì được lòng ưng
thuận. ‘Cao bằng thấp vừa‘, đó là cách diễn tả xã hội của chữ ‘hoà’, biểu diễn
một cách cư xử hàng ngày trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Vợ thuận là chỉ đức căn bản của
người vợ. Chữ ‘thuận’ có nghĩa là theo, bằng lòng theo, phục theo. Chữ ‘thuận’
đây ở mức đạo, là ‘thuận đạo’, hàm ý nghe theo, sống theo, chết theo. Trước đó,
có thuận cảm, thuận tình. Bởi đó, có ba mức thuận. Thuận cảm thường ở
thuở sơ giao, mới gặp. Cảm vì đức, cảm vì tài, cảm vì dung mạo tính tình dễ
thương, cảm vì gia thế, cảm vì chí khí. Chữ cảm này thường biểu lộ một sự thích
thú, khoái chí, thèm muốn. Khi cô trả lời cậu là ‘hổng thèm đâu’, là đã có thèm
một tý rồi. Sau mức thuận cảm thì có thuận tình. Tình đây là tình nhớ,
tình thưa, tình gởi, tình thương, tình tìm, tình trao. Khi cô thấp giọng khẽ
thưa ‘dạ chịu’, là cô biểu lộ một sự bằng lòng đắm say vậy. Thuận cảm và thuân
tình là hai chữ thuận đưa đến chữ thuận thứ ba : ‘thuận đạo‘, được xác
định một cách qui củ qua chữ ‘tòng phu’, theo chông.
Nho giáo dậy người đàn bà chữ tam tòng, tứ đức. Bốn đức là công,
dung, ngôn và hạnh. Tam tòng là theo cha, theo chồng, theo con. Chữ ‘vợ thuận’
đây hàm chứa đức thuận tòng của người vợ đối với người chồng. Thực ra chữ thuận
luôn đi đôi với chữ hoà. Nếu có chồng hoà thi đương nhiên có vợ thuận. Và nếu
có vợ thuận thì ắt có chồng hoà.
Nhà nghĩa đen là cái nhà để ở,
nghĩa bóng là gia đình. Nếu hôn nhân vợ chồng là một định chế có tính chất khế
ước, có tính cách pháp luật, thì gia đình là một định chế có tính cách tương
quan, cộng đoàn chung sống dưới một mái nhà. Nếu hôn nhân vợ chồng chỉ là định
chế nối kết người nam và người nữ, thì gia đình là một định chế sản sinh và qui
tụ nhiều thế hệ khác nhau, có thể đến tam thân : vợ chồng, cha con, anh em ;
hoặc đến tứ đại, ngũ đại, thậm chí có thể lên đến cửu tộc: cao, tằng, tổ, khảo,
kỷ thân, tử, tôn, tằng, huyền : cố tổ, cố nội, ông nội, cha, mình,
con, cháu, chút, chít.
Thường yên vui là thường
xuyên được yên vui ; yên vui hạnh phúc là lẽ bình thường, lẽ tất nhiên.
Nhưng chữ ‘thường’ cũng có thể hiểu là đạo ngũ thường, tức là
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. ‘Nhà thường’ là gia đình giữ đạo ngũ thường. Có
lẽ hiểu theo nghĩa này thì đúng ý sâu xa của câu thơ hơn, vi nó đi từ hai yếu
tố tiên khởi cấu thành, là ‘chồng hoà’ và ‘vợ thuận’, đến toàn thể cộng đoàn là
‘nhà thường’. Và cả câu thành ý nhị hơn : chồng hoà, vợ thuận, gia đình đạo
đức, đó là an vui hạnh phúc vậy.
Như vậy, ‘Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui’ là mục tiêu thứ
hai của hôn nhân vợ chồng : xây dựng một gia đình hạnh phúc. Gia đình có thể
chỉ là vợ chồng, hoặc bao gồm cả tam thân, tứ đại, cửu tộc. Muốn đạt được hạnh
phúc ấy, chồng phải hoà, vợ phải thuận và gia đình phải có đạo đức ngũ thường.
Còn tiếp
Em sang thăm Anh, được đọc bài viết hay!
Trả lờiXóaEm chúc Anh luôn an vui ạ!
http://anh.khampha.vn/upload/2-2015/images/2015-05-15/1431700104-moc-lan-3.jpg
http://khampha.vn/upload/2-2015/images/2015-06-25/1435240088-mua-yeu-thuong--6-.jpg
XóaCám ơn lời chúc tốt lành của Hoa Đào.
Chúc em luôn xinh tươi như hình Avatar của em. Sao hình nhỏ thế!