Nhà
có đám giỗ, chị Hương hớn hở nói với đứa con trai: “Sao không mời con
Da-Ni-Phờ đến ăn cho vui? Con bé nầy dễ thương, vui vẻ, và ưa lăn vô bếp
lăng xăng làm việc nầy việc nọ. Có khi giành rửa cả núi chén bát, mà
mặt vẫn tươi như hoa nở.”
Trân
thẳng thắn trả lới mẹ: “Nó ớn thấu óc lối ăn uống nhà mình rồi mẹ à. Nó
nói thiếu vệ sinh, dễ lây lan truyền nhiễm bệnh từ người nầy qua người
khác.”
“Sao vậy?” Chị Hương tròn mắt ngạc nhiên hỏi.
Trân
rùn vai: “Nó nói nhà mình ăn đũa, ngậm vào miệng, rồi gắp thức ăn trong
dĩa chung. Dính cả nước miếng, đờm dãi của người khác. Có người mang
bệnh truyền nhiễm, không ai biết, rồi lây lan cho mọi người. Dơ dáy.”
Chị Hương gằn giọng: “Dơ dáy? Tụi bây hôn môi, ngoạm mồm, trún nước bọt cho nhau, dễ thường vệ sinh sạch sẽ hơn ăn đũa sao?”
Trân không dám cãi lại mẹ, lảng đi nơi khác. Bố của Trân hạ cuốn sách xuống nhìn bà vợ, rồi cười:
“Tôi
đã nói với bà nhiều rồi, đừng dùng đũa gắp thức ăn cho ai cả. Mấy lần
bà mút đũa cho sạch, rồi gắp thức ăn bỏ vào dĩa cho con Da-Ni-Phờ, tôi
thấy cái mặt nó cứng sượng lại, dáng điệu sợ hãi lắm, cứ nhìn chăm chăm
vào miếng ăn bà vừa gắp cho nó, mà không dám đụng đến. Bà gắp cho tôi
thì được, chứ đừng nên gắp cho ai cả. Ngay cả bạn bè thân thiết hay con
cái trong nhà cũng đừng. Riêng tôi với bà, thì xem như một, tôi không sợ
cái dơ của bà, bà không sợ tôi lây bệnh. Đó là chuyện riêng của vợ
chồng. Nhưng có lẽ, ngay cả vợ chồng, cũng không nên dùng đũa gắp bỏ cho
nhau.”
Chị
Hương hừ một tiếng, giọng giận hờn: “Người ta có thương, có quan tâm,
mới gắp miếng ngon mời ăn. Nếu không thì mặc kệ. Hơi đâu mà tốn sức!”
Ông
chồng chị tiếp lời: “Bà có cái thói dùng đũa sục sạo, moi móc, đão lộn
thức ăn trong dĩa, tìm miếng ngon bỏ cho người khác. Cái tâm của bà tốt
thật, nhưng hành động đó không hợp với văn minh chút nào.”
“Ưà, tui dã man mọi rợ như vậy đó. Ai chịu thì chịu, không chịu thì thôi!”
“Ai
mà dám không chịu bà? Bà bỏ đói cho vêu mỏ ra thì khốn. Nhưng tôi có
nhận xét sau đây, nói ra bà đừng buồn giận nghe! Bà học được cái thói
đão thức ăn trong diã của mẹ bà. Mỗi lần về thăm ông bà cụ, trong bữa ăn
tôi ớn lắm. Có lần ăn thịt gà bóp rau răm, mẹ dùng tay bốc và xé thịt
bỏ vào chén tôi. Nhìn mười ngón tay của mẹ, móng dài, đóng khớm đất đen
ngòm. Tôi cũng ớn lạnh. Mắt tôi muốn nổ đôm đốm. Tôi cứ hốt hoảng bảo
xin mẹ để cho con tự nhiên, trong nhà cả mà, con đâu dám khách sáo.
Nhưng mẹ cứ bốc bỏ thêm vào chén tôi. Tôi biết đó là tình thương, là
lòng tốt của mẹ dành cho con rể, không thể phụ lòng mà từ chối, không đổ
đi được, sợ mẹ buồn. Tôi nín thở nhắm mắt mà nuốt trỏng, không dám
nhai, nó cứ nhờn nhợn trong cổ, nuốt hoài không xuống. Cứ nghĩ phải ăn
các thứ vi khuẩn, vi trùng, sán lãi, chất dơ bẩn dính trong mười cái
móng tay đen điu đó, không nổi gai ốc sao được. Chúng ta phải can đảm mà
công nhận cái chưa đúng, lối sống thiếu vệ sinh của mình. Tìm cách cải
tiến sửa đổi cho hợp với thời đại văn minh hơn. Nhiều lần tôi đề nghị ăn
đũa hai đầu như thời xưa mấy người đi kháng chiến chống Pháp trong bưng
biền, mà không ai chịu.”
Bà
Hương cười chế diễu: “Ăn đũa hai đầu văn minh lắm hay sao! Mấy người
đó, ở trong rừng đặt bày chuyện vệ sinh, khi về thành, có còn ai dùng
đũa hai đầu nữa đâu. Hai đầu đũa đều dính dơ, dễ quệt vào áo quần. Khi
muốn tạm gác đũa cũng không được, không biết gác vào đâu. Thêm lúng túng
vụng về. Tôi nhớ nhiều lần ông đề nghị để thêm vài ba đôi đũa chung
trên mâm cơm, để cả muỗng chung vào các dĩa thức ăn, khi gắp, thì dùng
các thứ đũa muỗng chung đó. Thế mà ngay chính ông, cứ lẫn lộn, cầm đũa
chung mà ăn, dùng đũa riêng mà gắp, lẫn lộn nhau, được năm ba hôm, phiền
phức quá, rồi cũng dẹp. Chính ông phá chứ không ai cả.”
Ông
chống bà rùn vai cười gượng: “Đúng. Tôi cứ lẫn lộn mãi vì quen thói cũ.
Nếu chúng ta cứ tập lần lần, kiên nhẫn theo, rồi thành quen và sẽ không
lẫn lộn nữa. Cái gì cũng phải tập, thói quen mấy chục năm từ ngày còn
thơ ấu, đâu thể bỏ ngay được?”
Ông chồng bà Hương thở một tiếng rất dài, tằng hắng rồi nói:
“Cách
ăn uống ở quê tôi còn thiếu vệ sinh hơn nhiều. Một lần tôi về thăm,
được mời cơm chiều. Chiếu trải trên giường, mâm cơm có hai tô canh, một
dĩa rau luộc lớn, một tô nước chấm bằng mắm nêm pha loảng với ớt cay,
tỏi bằm, thêm một dĩa mắm cà vun. Quanh mâm cơm có tám người, hai ông bà
nội, hai vợ chồng, ba đứa con, và tôi. Đường xa, đói bụng, nhìn mâm cơm
tuy thanh đạm, nhưng tôi đã cảm được cái ngon trong tô canh, trong diã
rau luộc và tô nước chấm cay xè. Cả nhà, ai cũng đua nhau ăn mau như vũ
bảo. Mọi người dùng đũa gắp rau, rồi nhúng vào chén nước chấm chung,
quậy quậy đũa, rồi đưa thẳng vào mồm. Thỉnh thoảng có người đang nhai
nhồm nhoàm cơm đầy trong miệng, cầm tô canh lên húp một tiếng ‘rột’, rồi
bỏ xuống, người khác bắt chước, cầm tô húp theo. Tô nước chấm hòa đủ
nước miếng của mọi người trong nhà qua đôi đũa, càng ngày càng loảng và
nhạt ra. Tôi đi đường xa, tuy bụng đói, nhưng cũng ngại ngần, không dám
ăn rau luộc, không dám chan canh, chỉ khười khười mấy trái mắm cà, vì
món nầy ít bị những đôi đũa xáo trộn.”
Ngưng
một lát, ông chồng nói tiếp: “Đừng hỏi tại sao không chia cho mỗi người
một chén nước chấm riêng. Nhà nghèo, chén đâu có nhiều mà bày ra. Dù
nếu có được chén, cũng không thể đủ nhiều nước chấm để chia riêng cho
từng người vài muỗng. Bởi thế, khi trong nhà có người bị bệnh truyền
nhiễm thì nó lây lan vô tội vạ. Rán mà chịu. Nhưng thật ra, thì không
biết làm sao hơn. Biết đâu đó cũng là một cách chủng ngừa lạc hậu nhưng
lại hiệu nghiệm.”
Anh
con trai tán thêm: “Khi nào đi ăn tiệc, con tránh ngồi chung bàn với
ông Tư, dì Sáu, chú Tám. Mấy người nầy ăn uống tự nhiên, dễ dàng. Cứ
dùng đũa đào bới lật qua lật lại thức ăn trong dĩa, gắp miếng nầy lên,
bỏ miếng kia xuống, cho đũa chạy rong từ dĩa nầy qua dĩa khác để tìm gắp
những miếng ăn mà họ vừa ý. Có mấy người khách chung bàn cứ nhíu mày,
mắt theo dõi chăm chăm các đôi đũa đang sục sạo, có lẽ để tránh các nơi
thức ăn đã bị đũa người khác nhúng vào rồi. Con thì cứ cười cười, quan
sát nét mặt bất bình, không vui của những người sợ, và cái hớn hở thản
nhiên của người đang dùng đũa bới đào chọn lựa, tìm được miếng ngon,
thấy mà thương. Bác Ngô nói với con rằng, thường chỉ ăn được mấy miếng
đầu tiên, khi những đôi đũa dơ dáy chưa đào xới diã thức ăn. Sau đó, bác
gác đũa, ngồi nói chuyện vui. Bởi thế, mỗi lần phải đi dự tiệc tùng,
bác bèn ăn cơm nguội trước ở nhà cho lưng lửng bụng mới ra đi. Bác nói
tiếp, có thể người ta sạch sẽ vệ sinh hơn bác, nhưng bác không muốn ăn
nước bọt, uống đờm dãi của người khác.”
Bà
Hương trừng mắt gắt: “Thôi, thôi, mẹ không muốn nghe cái lối nói thiếu
tử tế đó. Việc chi mà kêu là uống đờm dãi của người khác, nghe không lọt
tai. Nên ăn nói cho thanh lịch, tử tế hơn. Ông ấy đâu có vệ sinh văn
minh chi hơn ai mà bày đặt chê bai.”
Ông chồng bà Hương thấy vợ nỗi cáu, quay qua nháy mắt với anh con trai, và hạ giọng nói riêng với nó:
“Lần
nọ ăn tiệc, ba ngồi gần bà chị hàng xóm cũ. Bà nầy quen thân từ nhỏ.
Ngồi gần nhau, bà vui mừng nói chuyện tíu tít. Bà cho biết mới bị bệnh
cúm xong, chưa lành hẳn, lâu lâu bà hắt xì nhảy mũi, lấy khăn xịt mũi xì
xì, và ho sù sụ. Ba cũng sợ lây bệnh lắm, nhưng đành phó mặc cho Trời,
và cầu sao đừng bị lây. Chị em lâu ngày gặp lại nhau, dù về nhà có bị
bệnh, cũng đành chấp nhận. Nhưng chị cứ dùng đũa của chị, gắp thức ăn bỏ
vào chén của ba mãi. Ba cứ van lơn cầu khẩn chị để cho ba tự nhiên, ưa
ăn món nào thì sẽ tự gắp. Nhưng chị không chịu, cứ gắp bỏ cho ba hoài.
Ba buồn lắm, nhưng không biết làm sao. Thấy dĩa thức ăn của ba cứ đầy
vun, chị hỏi sao không ăn, ba ngại ngần giả vờ nhăn mặt, nói rằng bỗng
nhiên nghe đau quặn trong bụng. Rồi ba chỉ uống nước cho đến khi tiệc
tàn.”
Anh
con trai cười thích thú kể cho hai ông bà nghe: “Ba mẹ có biết không,
thằng James nó nói ăn lẩu là “góp nước miếng húp chung”. Mọi người đều
gắp tôm cá thịt, rau, nhúng vào nồi, nhận chìm rau, quậy vục, chờ sôi,
thọc đũa riêng vào mà vớt, mò, đôi khi lại dùng cả muỗng riêng mà múc
nước húp, rồi cho vào chén. Mọi người đều cùng làm một động tác như
nhau, không ai ngán ai lây truyền bệnh hoạn. Không biết nồi lẫu sôi có
giết hết được các loài vi khuẩn, vi trùng hay không. Bởi thế, khi có ai
mời di ăn món lẫu, nó thẳng thừng từ chối ngay, con cũng thế. Con ngán
nhất những bữa cơm chung, khi có người kêu canh chua cá bông lau, nghe
đề nghị là con can ngay. Vì cũng như ăn lẩu, mọi người vui vẻ thọc đũa
vào tô canh mò, vớt cá ra dĩa, rồi thọc đũa riêng vào mà dày xéo xâu xé
con cá. Có lẽ họ nghĩ nước mắm mặn cũng đủ giết chết vi trùng, vi khuần
rồi chăng? Bởi vậy, khi nào ăn lẩu, ăn canh chua là không có con.”
Chị Hương tiếp lời anh con trai: “Người mình ăn đũa, dù cho là thiếu vệ sinh, nhưng đã chết ai đâu mà ầm ĩ?”
Ống
chồng chị đưa tay ngắt râu ngứa, rồi từ tốn nói: “Có chắc chưa chết ai
không? Thế mà thống kê cho biết, chỉ tại Hoa Kỳ thôi, số người bị lây
nhiễm qua đường miệng do ăn uống hàng năm có đến gần 50 triệu người, mà
130 ngàn người phải đưa vào bệnh viện, và chết hơn ba ngàn người. Còn
Việt Nam mình không có thống kê, cứ lặng lẽ truyền bệnh, âm thầm mà
chết. Tôi nghĩ rằng, sở dĩ người Việt Nam mình đông đảo người bị bệnh
gan, là hậu quả của ăn đũa. Đôi đũa, gây đại họa, đôi đũa bí mật giết
người.”
Chị Hương đã yếu giọng: “Chi đến nỗi bi thảm đến thế? Dễ chừng những xứ không ăn đũa ít bị bệnh gan hơn chăng?”
Anh
con trai xen vào: “Ba nói đúng đó mẹ à. Bố mẹ của bạn con, mười người
chết, thì có đến năm sáu người chết vì bệnh gan, chai gan, ung thư gan,
bệnh gan B, bệnh gan C. Rồi mới đến bệnh tim, ung thư phổi, tử cung,
ruột. Bác Sáu nói rằng, không hiểu sao những người hay về Việt Nam chơi,
khi trở lại Mỹ, thường bị bệnh gan mà chết. Nói thế thì có lẽ cũng
không đúng hẳn, không lẽ chỉ họ chết mà người bên Việt Nam mình không
sao?”
Chị
Hương lên giọng: “Đôi đũa cũng được xem như là một phát minh quan trọng
của loài người. Là một bước tiến của nền văn minh cổ đại. Dùng đũa, có
nhiều điều kỳ diệu. Còn bao hàm một cả triết lý của đông phương. Đó là
nguyên lý âm dương, ngũ hành, kết hợp giữa thế động và thế tĩnh, động là
chiểc đũa trên di động, tĩnh là chiếc dưới nằm yên. Đũa tiện dụng, có
thể đào, bới, kẹp, lùa, xắn, cắt, xé, phân nhỏ, xiên, đè, quẹt, hất,
giữ. Chỉ đôi đũa thôi, nó còn đa năng hơn hai ngón tay, hơn con dao, hơn
cả muỗng nĩa. Đũa chỉ không gắp được chất lỏng mà thôi. Có lẽ vào thời
xa xưa nào đó, khi còn ăn lông ở lỗ, tổ tiên chúng ta đã dùng que, nhánh
mà khều thức ăn nướng trong lửa nóng. Ban đầu dùng một thanh, sau đó
dùng hai thanh mà gắp, thấy thuận tiện, nên đôi đũa được phát sinh. Cũng
có học giả cho rằng, loài người bắt chước những con chim mỏ dài gắp cá
mà làm nên đôi đũa. Khi tay dơ dáy, dính đầy bùn đất, không muốn bốc
thức ăn đưa lên miệng, dùng đũa là giải pháp tốt nhất.” - Ngưng một lúc,
chị nói tiếp - “Dùng đũa, còn vệ sinh hơn dùng tay mà bốc như cách ăn
của người Ấn Độ, Trung Đông. Đang ăn, ngứa đầu đưa tay lên gãi tóc,
ngứa mông thọc tay vào quần gãi, rồi cũng bàn tay đó, bốc thức ăn cho
vào miệng. Ăn đũa không rườm rà như ăn bằng dao, nĩa, muỗng của người Âu
Châu. Người Nhật, người Hàn cũng dùng đũa, họ bày đặt ra những quy định
riêng khá nghiêm ngặt khi sử dụng đũa, cũng bảo đảm được phần nào vệ
sinh trong khi ăn chung.”
Anh
con trai góp chuyện: “Con nghe chú Tú kể rằng, thời mới được tàu Nhật
vớt trong khi vượt biển. Đến Nhật tình cờ gặp được người bạn cũ vào thời
du học tại Mỹ trước đây. Được bạn mời cơm nhiều lần, và chú đã phạm
phải nhiều sai sót khi dùng đũa. Vì người Nhật đã đưa nghệ thuật ăn đũa
thành một thứ văn hoá, với nhiều quy định chặt chẽ. Chú cứ gắp thức ăn
từ dĩa, lia lịa đưa thẳng vào miệng. Chủ nhà vì lịch sự không nói, nhưng
có vẻ không bằng lòng. Trong khi đang ăn, nhiều lúc chú tạm gác đũa qua
chén. Làm chủ nhà tròn mắt ngơ ngác. Với người Nhật, đây là một hành
động cực kỳ vô phép, xúc phạm đến người nấu ăn, ý muốn nhắn rằng, đồ ăn
dở như hạch, hay là tôi cóc cần các thức ăn nầy. Có khi chú đã dùng đũa
đâm xiên vào cục thịt, cũng là một hành động vô lễ, giống như thử xem
thức ăn đã nấu chín hay chưa. Sau nầy, chú đọc sách, học được nhiều quy
tắc trong khi dùng đũa của người Nhật. Ví như không được ngậm đũa trên
miệng, không được dùng đũa đề chuyền thức ăn cho nhau, giống hành động
gắp tro xương người chết. Không cắm đôi đũa vào tô cơm, đũa chỉ được
cắm vào tô cơm cúng người chết mà thôi. Cũng không được dùng đũa để
chuyển dịch tô chén trên bàn ăn. Không được nhảy đũa từ món nầy qua món
kia. Không mút đũa. Không dùng đũa khoắng trong tô canh. Khi gắp món ăn,
gắp từ miếng nằm trên dần xuống miếng dưới, chứ không đào bới tìm miếng
ngon vừa ý. Kể ra những quy tắc đó, có nhiều phần đúng với phép vệ
sinh, nhưng cũng có nhiều cái mang nặng tính cách quy định không cần
thiết. Nếu ăn đũa theo người Nhật, cũng bớt được phần nào truyền nhiễm
bệnh từ nước miếng khi ăn chung.”
Sau
khi pha cho chồng và con hai ly nước trái cây, chị Hương lục lọi trong
tủ đựng các dĩa phim, rồi bảo sẽ cho chồng xem nghệ thuật cao siêu của
người sử dụng đũa thuần thục. Trên màn ảnh truyền hình hiện lên một kiếm
khách xứ Phù Tang, đầu đội nón rê xùm xụp, mang áo tơi lá, trông tơi tả
nhếch nhác như một kẻ ăn mày, khệnh khạng bước vô quán, xem như chung
quanh không còn ai. Lặng lẽ nâng cốc cạn rượu. Bỗng từ phía bàn kia, có
người ném một ‘ám khí’ bay vụt thẳng vào mặt kiếm khách. Không né tránh,
không vội vàng, kiếm khách cầm đôi đũa lên, gắp được miếng ám khí đang
bay, vụt hất ngược lại, địch thủ thét lên một tiếng đau đớn mà ngã lăn
quay ra chết. Rồi cũng đôi đũa đó, gắp lia lịa giết bọn ruồi nhặng đang
bay vo ve trên dĩa thức ăn.
Chị
Hương hỏi chồng: “Ngày nay văn minh, cả thế giới như đã thu hẹp lại.
Hiểu biết và văn hóa phổ biến khắp nơi, thì tại sao các dân tộc ăn bốc
không biết cải thiện, mà dùng dao nĩa, dùng đũa? Không biết dân Ấn Độ ăn
bốc có vục tay vào tô cà ri mà thay muỗng, đưa lên miệng húp sồn sột,
rồi mút và liếm bàn tay hay không? Có lẽ là không. Có thể họ đổ ra tô,
diã của họ, rồi chấm mút chăng?”
Chồng
chị Hương thong thả: “Nghe đâu ăn bốc, theo quy định, chỉ được bốc bằng
các ngón của tay mặt mà thôi, tay trái được nghỉ ngơi, có lẽ vì tay
trái chỉ xử dụng để làm những việc dơ dáy. Món ăn nào bị bàn tay trái
của người khác đụng vào, thì xem như đã bị ô nhiễm, không ai dám đụng
đến nữa, phải bỏ đi. Người ta khinh bỉ người ăn bằng tay trái, bị xem là
hạ tiện, bất lịch sự. Trong truyện ‘Ngàn Lẻ Một Đêm’ của dân Ả Rập có
kể chuyện một thương gia giàu có, vì ăn tỏi hôi tay, nên bị người tình
là bà hoàng, chặt mất bàn tay mặt, phải dùng tay trái trong lúc ăn, ông
ta bị khinh bỉ, hất hủi, miệt thị.
Khi
bốc những thức ăn rời rạc như cơm, đậu, thì chúm các ngón tay mà vít
lên, rồi lật ngữa bàn tay, để thức ăn vào giữa bốn ngón, sau đó dùng
ngón tay cái mà lùa vô miệng. Không để thức ăn trong lòng bàn tay. Không
bốc thức ăn từ dĩa đưa thẳng vào miệng. Ăn quen thì cũng gọn gàng,
không bôi tèm lem vào râu ria, môi miệng.”
“Ăn bốc có gì hay mà không thay đổi nhĩ?” Chị Hương hỏi vẩn vơ.
Trân,
con trai bà Hương trước đây có cô bạn gái người Ấn Độ, hay lui tới và
định ‘kết’ với cô nầy, nên đã tìm hiểu, bèn giải thích cho mẹ:
“Ăn
bốc cũng có cái triết lý cao siêu riêng của nó, chứ không phải là dã
man, chưa văn minh, chưa biết dùng đến đũa hay dao nĩa. Họ quan niệm
rằng, ăn bốc là một phối hợp kỳ diệu của ngũ hành với hệ thống thần kinh
não bộ, nối liền với hệ thống bộ tiêu hoá, có nhiều ích lợi dinh dưỡng
cho đời sống. Họ quan niệm năm ngón tay hàm chứa năng lực ‘ngũ hành’.
Ngón cái là tiêu biểu cho lửa, ngón trỏ là khí, ngón giữa là trời, ngón
đeo nhẫn là đất, ngón út là nước. Nếu mất thăng bằng của ‘ngũ hành’ nầy,
thì dễ sinh bệnh hoạn. Khi ăn bằng tay, bốc bằng năm ngón, thì năm thứ
năng lượng tiềm tàng nầy đi theo thức ăn mà vào cơ thể, làm cho thức ăn
thành một món thuốc, chữa lành các bệnh hoạn, tăng sinh lực cho các vùng
yếu đuối của cơ thể. Khi bốc bằng tay, thì cái xúc giác đưa tín hiệu
lên não bộ, vào hệ thống kinh mạch, nên bao tử biết để đón nhận, và chấp
nhận, tiết ra những dịch vị thích ứng, cho nên thực phẩm dễ tiêu hoá
hơn. Mấy ngón tay cũng là cái nhiệt kế đo lường độ nóng lạnh của thực
phẩm, để khỏi phỏng miệng la làng.”
Chị
Hương cười: “Bày đặt! Tưởng tượng! Có chi chắc là nước, lửa, trời, đất,
khí nằm trên năm ngón tay? Người ta tưởng rằng, ăn dao nĩa là văn minh
và thuận tiện nhất. Không hẵn. Trước tiên, phải cho mỗi người một bộ.
Dao nĩa cũng không thuận lợi bằng đôi đũa. Phở mà ăn bằng nĩa thì bất
tiện lắm. Không thể nào câu sợi phở lên, cũng không thể quấn vòng vòng
như ăn mì sợi, nó tuột mất. Thử xem, khi muốn gắp cục xương, dùng đũa
vẫn dễ dàng hơn dùng nĩa, cục xương nằm chênh vênh trên cái nĩa, rất dễ
rơi rớt ra bàn, văng vào áo quần người khác. Ăn bằng dao nĩa, phải phối
hợp với ăn bốc. Như ăn bánh mì, họ phài dùng tay mà xé, ăn gà nướng,
cũng bốc bằng tay. Nếu dùng đũa, thì không cần phải bốc bao giờ.”
Trân
kể cho bố mẹ nghe rằng, sở dĩ con Da-Ni-Phờ không dám đến nhà ăn nữa,
vì năm ngoái, nó đi du lịch bên Việt Nam với bạn. Chúng nó nghe nói thức
ăn của các bà bán hàng rong rất ngon. Chúng ăn bún ốc. Ăn mỗi đứa ba tô
ngon lành. Khi ăn thì chúng không để ý. Khi thấy chị hàng rong rửa tô
trong một cái chậu nước nhỏ, và lau bằng cái khăn ướt ngã màu đen điu,
mà trước đó nó thấy đàn ruồi bu đen, chạy nhảy trên khăn. Nó chợt nhận
ra chậu nước đó đã rửa cả hàng chục cái tô của hàng trăm thực khách, bao
nhiêu dơ dáy đều gom lại trong đó hết. Nó nghe dờn dợn trong cổ họng,
rồi quay ra, kê đầu vào gốc cây mà nôn thốc nôn tháo ra hết. Nó tởn,
không dám đụng đến các gánh hàng rong nữa. Sau đó, con Da-Ni-Phờ còn
thấy tận mắt các bà bán hàng móc túi thối tiền, những tờ đen điu bèo
nhèo dơ dáy, rồi cũng dùng bàn tay trần đó, bốc thịt, bốc rau, nhón tiêu
hành, thả vào các tô chén cho thực khách ăn. Nó khiếp vía từ đó.
Chị
Hương nói với Trân: “Con cứ kêu con Da-Ni-Phờ đến ăn đám giỗ cho vui.
Nói cho nó biết, sẽ cho nó một dĩa riêng thức ăn, không chung đụng với
ai cả. Con bé nầy dễ thương vui vẻ. Mỗi xứ có cái văn hoá riêng. Ai cũng
tự hào về văn minh của mình. Đừng ai chê ai. Ăn bốc cũng tốt, ăn bằng
dao nĩa cũng hay, nhưng tốt và tiện nhất là ăn đũa như chúng ta.”
Trân
tiếp ý mẹ: “Thế sao chúng ta không phối hợp giữa dao nĩa, và đôi đũa mà
ăn uống cho vệ sinh? Có đũa muỗng riêng, đũa muỗng chung, không ai ngại
ai. Như thế thì có vệ sinh hơn không. Ngày nay, đũa muỗng cũng rẻ rề,
mua bao nhiêu cũng có. Cứ tập dần, cái gì hay thì theo, cái gì không tốt
thì bỏ đi.”
Chị
Hương nghĩ ngợi một lúc, vui vẻ nói: “Mẹ tán thành ý kiến của con. Kể
từ ngày mai, sẽ thi hành. Trong bữa ăn ai vi phạm sẽ xử phạt bằng tiền.
Mẹ chắc Ba con sẽ bị phạt dài dài đó. Phạt mãi, sợ tốn tiền, thì sẽ tuân
thủ mau.”
Ông chồng chị quay lại nói lớn: “Ừ, ừ, để xem ai bị phạt nhiều hơn ai cho biết. Bà cứ chê tôi hoài!” ./.
Tràm Cà Mau 2015
Thăm Fatasa đọc bài thật nhiều điều có ích trong việc chung cùng ăn uống.Cảm ơn nhé
Trả lờiXóa"...Chúng ta phải can đảm mà công nhận cái chưa đúng, lối sống thiếu vệ sinh của mình. Tìm cách cải tiến sửa đổi cho hợp với thời đại văn minh hơn. ..." đồng ý cùng bạn.Mến
http://xemanhdep.com/wp-content/uploads/2009/10/flower.jpg
Anh tiên phong làm trước nhé! Anh nói là mọi người đồng ý 100%.
Xóahttp://i629.photobucket.com/albums/uu11/troimay/HOA/11826016n_zpspzjt3o3p.jpg
Cảm ơn Fa đã sưu tầm nhiều bài viết hay góp phần vào việc thay đổi thói quen ăn uống thiếu vệ sinh,thiếu văn minh của dân mình.
Trả lờiXóaChúc Fa nhiều niềm vui và sức khỏe !
Anh em đàn ông đi nhậu nhiều, phải giữ gìn sức khỏe để còn nhậu tiếp. Hi, hi, hi. . .
Xóahttp://i629.photobucket.com/albums/uu11/troimay/Hinh%20Comment%202015/15%20-%2012_zps3jyp1n7j.jpg