Trang

08/09/2023

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Thời Xuất Chính (Không phải 8 năm 30 năm!)

Đỗ đầu thi hương, thi hội, thi đình, Tam nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm được bổ nhiệm Đông Các hiệu thư (sửa chữa văn thư , sau thăng Tả Thị Lang Bộ Hình, Bộ Lại, kiêm Đông Các Đại Học Sĩ - Tam phẩm).

Trong 8 năm tại triều (1535-1542) ông từng dâng sớ xin chém 18 lộng thần. Năm 51 tuổi đời vua Mạc Phúc Hải, ông cáo quan về quê. Ít năm sau triều đình lại vời ông ra làm Thượng Thư Bộ Lại, Thái Phó, phò giúp vua nhỏ Mạc Phúc Nguyên (1546-61), cùng với Mạc Kính Điển là chú vua và là cột trụ chống đỡ nhà Mạc.

Trong khoảng 55 tới 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không hẳn kinh đô Thăng Long, nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính, lúc bàn quốc sự, lúc đi đánh giặc, nhà Mạc tôn kính ông như quân sư, phong ông làm Trình Tuyền Hầu (vì thế dân gian mới gọi là Trạng Trình). Mãi tới ngoài 70 tuổi ông mới hoàn toàn quy ẩn nơi quê nhà.

Thời Quy Ân Triết Sáng tạo “Trung Tân”

Ông về quê năm 1563, sống đời tiên thoát tục trong Am Bạch Vân, bắc cầu Trường Xuân, Nghênh Phong, làm nơi nhàn tản nhìn trăng hóng mát. Ông lại khuyên dân làng trồng cây bờ đê để lấy bóng dâm, mở chợ làm nơi buôn bán, tu sửa đình chùa... Ông cùng học trò dựng quán Trung Tân nơi bến Tuyết giang, cho khắc văn khuyến Thiện trên bia đá, bài bia này nói lên triết tưởng cao siêu của Trạng Trình:

“... Toàn kỳ thiện giả vi trung, bất toàn kỳ thiện giả tắc phi trung dã... Tân giả tân dã, tri sở chỉ vi yếu tân, bất tri sở chỉ tắc tân dã... Trung chi sở tại, tức chí thiện chi sở tại...”

nghĩa là:

“…vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung... Tân cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến ... Nghĩa chữ Trung chính chỗ Chí Thiện...”

lẽ trong nghìn năm Nho học mới thấy một nhà Nho giải nghĩa chữ Trung Dung một cách giản dị, đầy đủ sáng tạo như vậy. Cốt tủy của Trung phải Thiện, không có lòng Thiện thì biết đâu là chỗ Trung, chỗ đúng tiết, chỗ “chính ngay giữa dừng lại! Tâm bất chính thì lạc vào bến mê, tâm giác ngộ thì biết bờ bến để neo thuyền, tưởng này phảng phất tưởng Đáo bỉ ngạn tức tới được bến của nhà Phật. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nối Nho vào Phật Lão, mang lại cho nhà Mạc cái vinh dự tiếp tục tư tưởng Tam Giáo Đồng Tôn nhà độc tôn Tống Nho đã đánh mất, đánh mất nặng nề truyền thống dân bản khai phóng của Lạc Việt.

tuổi thất thập cổ lai hy,” Trạng Trình phong thái của một Vọng Khương Tử Nha ngồi câu bên bờ sông Vỵ, một Gia Cát Lượng nằm ngâm thơ chân núi Ngọa Long:

Ngư ông bất ngộ Đào nguyên khách

 khởi thức hưng vong thế cổ kim!

Tương truyền cụ Trạng thường cùng các nhà già đi thăm các nơi danh lam thắng cảnh, nay Yên Tử, Đồ Sơn, mai Ngọa Vân, Kim Hải... học trò trước sau đông tới ba nghìn người. Cụ ba phu nhân, 7 trai 5 gái.

 

Năm 1585 tuổi già lâm bệnh, biết mình khó qua, cụ Trạng 95 tuổi còn dâng sớ xin vua: “... thần tính độ số thấy vận nước nhà đã suy, vận nhà đến hồi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó theo. Song nhân giả thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thì thần chết cũng được thỏa long.”

 

Nhà Mạc cử cột trụ Triều đình hoàng thân Khiêm Vương Mạc Kính Điển cùng các quan về tế lễ, sai lập đền thờ, cấp ruộng tự điền trăm mẫu, vua Mạc Mậu Hợp lại đích thân viếtchữ đề lên đền thờ: Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ.” Bảy năm sau khi Trạng Trình mất, 1592, nhà Mạc cũng mất theo, tuy còn giữ đất Cao Bằng thêm được 4 đời nữa.

Xem thế Trạng Trình đã dốc lòng phò Mạc và nhà Mạc cũng hết mực cung kính cây cổ thụ che chở triều đại suốt 60 năm.

Một trăm năm sáu năm sau, 1741, Tiến sĩ Vũ Khâm Lân nhân đi đánh giặc và đắp đê tới thăm đền thờ Trạng Trình, viết tựa cho tập gia phả của họ Nguyễn Bỉnh vào đời thứ tám (ngã bát thế chi hậu, binh qua khởi trùng trùng!) đã xúc động mô tả kiểu đất “Nghiễn trì thủy ảnh,” tức mặt hồ nghiêng, ánh nước long lanh, là đất phát sinh bậc đại nhân, đầm nước sâu hơn một trượng, bốn năm vụng đất trên khoảng vài trăm mẫu, chỗ thắt chỗ phình, khi lặng bóng, khi nắng vàng tỏa ánh.

Đạo Học Của Bậc Quân sư (Môn phái bạch vân am với quyết sách tam phân thiên hạ)
Từ cổ xưa, trước khi rơi vào cái học Tống Nho khoa cử độc tôn, tầm chương trích cú, người trí thức theo Đạo học, học để hành, hành tàng theo đạo. Đạo học là Đại học, quan để quán, bao quát mà vẫn qui về một mối (Uni-versity). Trạng Trình và các môn đệ của ông như Trạng Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ (tác giả “Truyền Kỳ Mạn Lục”), Nguyễn Quyện (danh tướng nhà Mạc), Trương Thời Cử, Trạng Giáp Hải, Lương Hữu Khánh... tập hợp thành một môn phái Đạo học, Đại học chi đạo, tiếp nối truyền thống Lý, Trần, học cả Nho lẫn Phật, Lão, cả Tứ Thư Ngũ Kinh lẫn các môn lý học, huyền học, binh thư, phong thủy địa lý... Trạng Trình phân phối môn đệ thân hữu đi mọi hướng đất nước: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh... vào với nhà Lê trung hưng ở Thanh Hóa, Nguyễn Đình Thân, người cùng quê Hải Dương, đi với Nguyễn Hoàng vào Hoành Sơn, Trạng Giáp Hải, Nguyễn Quyện và chính mình phò Mạc tại quốc đô Thăng Long cho tới gần hết thế kỷ XVI.
Sở học của Trạng Trình có lẽ được chính bà mẹ nuôi dưỡng uốn nắn từ nhỏ: học để làm vua, không làm vua thì cũng làm thầy vua, đấy là truyền thống “đế vương chi học” cao siêu của của bậc đại nhân:

 

Cao khiết thùy vi thiên hạ

Du nhàn ngã thị địa trung tiên

 

muốn vậy thì trên phải thông thiên văn, dưới phải rành địa lý, mưa gió nắng bão phải biết trước như Gia Cát, Trương Lương, chiến lược chiến thuật đều tinh thông nên thể xếp đặt thiên hạ như bàn cờ, nhà Mạc một phần, Trịnh một miếng, họ Nguyễn một phương... thế Tam quốc này chính Trạng Trình môn đệ phân định thi hành, mặc dầu

Trạng Trình cũng như Gia Cát, biết mình đang cố lấy nhân lực để cưỡng mệnh trời, thế loạn muốn trị cũng giống như con ngao to đội núi đỡ trời cao.” Cho nên than:

 

Cổ lai nhân nghĩa tri vô địch

hà tất khu khu sự chiến tranh.

 

dịch:

Nhân nghĩa xưa nay địch

sao vẫn khư khư việc chiến tranh.

vẫn phải cáng đáng thiên mệnh, tận kỳ tính, lo toan chuyện dân chuyện nước.

Từ Bạch Vân Am Trạng Trình dùng cái nhìn chiến lược phong thủy để mở ra mặt trận Nam phương cho Nguyễn Hoàng: vừa thực hiện việc mở rộng bờ cõi, vừa lấy thế hiểm mà dung thân, ông thôi thúc Phùng Khắc Khoan vào Thanh Hóa với nhà sau này, 1598, chính họ Phùng đi sứ sang Tầu đã dàn xếp chấp nhận để yên cho họ Mạc đất

Cao Bằng. Chính Trạng Bùng người theo chí thầy viết tập Sấm Văn tập Chu Dịch Quốc Âm Ca Quyết, việc ông hai lần gặp Liễu Hạnh Thánh Mẫu hiển linh, lần đầu ở Lạng Sơn, lần sau Tây Hồ, một khúc mắc lớn. thể chính hai thầy trò, đều tinh thông số, đều viết Sấm, đã nhân chuyện linh thiêng dựng nên một tín ngưỡng bình dân, lấy hình ảnh một Mẹ dân tộc làm mái che bên cạnh Phật, Lão, đang bị Nho đè xuống?

 

sao, không thể phủ nhận khả năng thần toán của Trạng Trình mà sứ nhà Thanh Chu Xán sau này phải nhận An Nam số hữu Trình Tuyền. ràng nhất bài văn tế của Tiến Đinh Thời Trung khóc thầy xác định tài số của thầy:

 

Một kinh Thái Ất thuộc lòng

 Đốt lửa soi gan Dương Tử

... Một mình lý học tinh thông

Hai nước anh hùng không đối thủ...

Đạo thống Thánh nhân tự tiên sinh mà truyền ra

Bờ cõi Thánh nhân duy tiên sinh là thấu đáo

....Đuốc ngọc chưa tàn ba ngọn

 Văn viết đã xong...

 

Như vậy quả có Thái Ất, Thái Huyền của Dương Hùng làm luận giải cho Kinh Dịch và quả có chuyện thầy trò từng ngồi đoán số gieo quẻ với nhau. Bên cạnh những lời cố vấn như “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung than” cho Nguyễn Hoàng, “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” và “Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, nên tìm giống cũ mà gieo mạ,” cho Trịnh Kiểm tiếp tục phò Lê, hay dặn dò “Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế (đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng cũng ở được mấy đời )” cho con cháu nhà Mạc, thơ văn Trạng Trình cũng xác nhận lý số sấm ký là một khía cạnh trong Đạo học của Trạng:

Thái cực nhất chu đàm luận liễu

Tri ngô thấu đắc Dịch chi thâm.

Dịch:

Thái cực một vòng đàm luận suốt

 Biết tôi Dịch lý thấu thâm sâu.

 

Quẻ Phục Thiên địa chi tâm trong kinh Dịch được nhắc tới nhiều lần:


 Bác vãng tĩnh quan tri tất Phục

Nhất dương nghiệm Địa Lôi trung.

 

Dịch:

Quẻ Bác qua, lặng yên xem phục đến

Một Dương nghiệm thấy giữa Địa Lôi.

 (Quẻ Phục sau quẻ Bác, gồm Khôn trên Chấn dưới, năm hào Âm đè trên, một hào Dương bắt đầu mọc ở dưới để Phục lên, vạn vật suy mãi cũng phải nẩy ra thịnh, đen mãi cũng hồi đỏ, ánh sáng cuối đường hầm, đó tâm của trời đất không nỡ để cái suy i).

 Hay câu:

 Tĩnh quan vạn vật sinh sinh ý 

Ưng kiến  cùng thiên hạ tâm.


 Dịch:

 Lặng xem vạn vật sinh thông

Thấy lòng trời đất mênh mông cùng.

 

Khi ra làm quan, ông đã biết trước:

Quý thế khí tài tuy tạm xuất

Hưng vương lương tá dĩ tiền tri.

 

Dịch:

Thế cuối tài hèn tuy tạm xuất

 Vua lên tôi giỏi biết trước ra.

 

Nhất hai câu thơ sau đây:

 Từ thuở hai sinh đặt ra

Than ôi tuổi tác kẻ ban già.


Nói về năm Ất Mùi (Ất can thứ hai, năm Mùi) đậu Trạng Nguyên khi đã 44 tuổi (1535 đời minh quân Mạc Đăng Doanh), rất giống ngôn từ dùng trong Sấm ký. Mãi tới cuối thế kỷ XVIII, đời Tây Sơn, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp (1723-1804) còn lặn lội ra thăm đền thờ Trạng Trình viết trong Thi Cảo cụ Trạng đã Phiến ngụ toàn tam tínhtức khuyên lời ngụ ý bóng gió để ba họ được an toàn.

 

Một vài chuyện sau đây có thể xác tín vì đã được ghi lại trong trong gia phả, trong Công Dư Tiệp Ký, hoặc truyền khẩu từ xưa:

Quẻ “Thiết Đoản Mộc Trường” (Sắt ngắn gỗ dài )

 Một ngày cuối năm ba mươi Tết, cụ Trạng một người học trò từ xa đến lễ thầy, hai thầy trò đang ngồi đàm luận thì người cổng xin vào. Cụ sai gia nhân ra nói hãy chờ một chút, trong lúc đó cụ người học trò cùng bấm quẻ xem người gõ cổng đêm ba mươi Tết có chuyện gì.

Hai thầy trò cùng bấm được quẻ “Thiết đoản mộc trường,” tức ứng vào vật sắt ngắn gỗ dài, cụ hỏi:

 -Anh đoán xem là người gõ cổng có việc gì ?

 Người học trò trả lời:

 -Thưa thầy, sắt ngắn gỗ dài thì chỉ có cái mai, chắc có người vào mượn cái mai đào đất.

 Cụ nói:

 -Tôi đoán khác anh một chút, người gõ cổng đến mượn búa chứ không phải mượn mai.

 Khi mở cổng cho người hàng xóm vào thì đúng là vào mượn búa chứ không phải mượn mai mượn xẻng.

Cụ giải thích cho trò:

-Anh bấm quẻ đã đúng nhưng luận chưa cao. Đêm ba mươi Tết đến mượn búa để bổ củi nấu bánh chưng chứ giờ này ai còn đến mượn mai đào đất !

 Vớt xác được phú quí

 Bùi Sinh là người học trò nghèo trong làng, Trạng Trình đoán sau này sẽ được phú quí. Mãi tới tuổi 70 Bùi sinh vẫn không giầu không sang, bèn đến hỏi lại thầy mình. Cụ Trạng cười không nói gì, rồi bỗng nhiên một hôm cụ gọi Bùi Sinh lại bảo rằng:

“Hãy mang thuyền đánh cá ra cửa bể Vạn Ninh, tới giờ ấy... hễ thấy gì trôi trên nước cũng vớt lên, sẽ được trọng thưởng.”

Bùi sinh nghe lời ra bến Hồng Đàm ngồi đợi, quả nhiên một hồi giông bão nổi lên rồi thấy một xác người dạt vào, nhìn kỹ là xác một người đàn bà ăn mặc quần áo Tầu gấm vóc sang trọng. Bùi sinh vớt lên, sau này mới biết là xác mẹ Tổng Đốc Quảng Đông đi chơi ngoài biển bị bão bạt sang phương Nam. Viên Tổng Đốc Quảng Đông cho người tìm về hướng biển Nam, khi tìm thấy liền trọng thưởng Bùi sinh rất hậu, rồi Bùi sinh lại được nhà Mạc phong quan tước vì hành vi ngoại giao tốt đẹp !

(Có chỗ thuật hơi khác là bà mẹ Tổng Đốc hãy còn sống, Bùi sinh cứu lên và nuôi dưỡng cho tới khi người Tầu sang đón về, có chỗ lại nói là vớt lên xác một công chúa Tầu... )

 Những giai thoại khác như “Minh Mệnh Thập Tứ, Thằng Trứ phá đền” hoặc “Cha con thằng Khả đánh ngã bia tao,” hoặc lấy số Tử Vi cho cái quạt... có thể do người sau thêu dệt, không có có giá trị tiên tri sấm ký.

 Khuyết Danh

Trần Văn Giang (ghi lại)

 

 

6 nhận xét:

  1. Bài hay.
    Cảm ơn em đã chia sẻ.
    Chúc em luôn vui,khoẻ.
    https://3.bp.blogspot.com/-7mPJaChxrL8/V838rFWmUUI/AAAAAAAAJCE/K0tiwPUoghIsvVSyrqz-OdoZFuYF6w3AwCLcB/s400/ezgif-3509891950-1.gif



    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Chúc chị cuối tuần vui vẻ.
      https://www.gifimages.pics/images/quotes/english/general/happy-weekend-gif-images-falling-52650-177410.gif

      Xóa
  2. Những tư liệu về Sử học nước nhà thật quý.
    HN sang thăm chúc anh ngày CN tươi hồng thật vui nhé anh!

    https://gifmaniacos.es/wp-content/uploads/2016/05/mariposas-movimiento-gifmaniacos.es-9.gif

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Đọc lịch sử Việt Nam rất hay, say mê luôn!
      https://i.pinimg.com/originals/40/cb/7b/40cb7b3112bfe015bbb00a8fa4da7f2d.gif

      Xóa
  3. Danh Nhân Đất Việt!

    https://123goodmorningquotes.com/wp-content/uploads/2020/02/Good-Morning-flower-gif.gif

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Môt Danh nhân danh tiếng!
      https://media.tenor.com/eH5Is1xMI3kAAAAC/good-afternoon-flowers.gif

      Xóa

Các bạn có thể:
- Viết bình luận trước, sau đó. .
- Copy và dán trực tiếp link ảnh vào khung nhận xét. Sau link ảnh đã dán, không gõ thêm bất kỳ ký tự nào nữa (kể cả nhấn phím Enter).
- Cám ơn Bạn đã bình luận về bài viết.