Nước Nga của Putin được mô tả là một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại, muốn lấy lại quyền lực và uy tín trước đây của mình. Gerard Toal, giáo sư về các vấn đề quốc tế tại Virginia Tech, viết trong cuốn sách Near Abroad:
“Mục tiêu của Putin luôn là khôi phục nước
Nga trở thành một cường quốc ở phía bắc Á-Âu. Mục tiêu cuối cùng không phải là
tái tạo Liên Xô mà là làm cho nước Nga vĩ đại trở lại.”
Gerard Toal
Bằng cách chiếm Crimea vào năm 2014, Nga đã củng
cố quyền kiểm soát của họ tại một vị trí chiến lược trên Biển Đen. Với sự hiện
diện quân sự lớn hơn và tinh vi hơn ở đó, Nga có thể phóng chiếu sức mạnh sâu
hơn vào Địa Trung Hải, Trung Đông và Bắc Phi, những nơi mà họ đã chỉ có ảnh hưởng
hạn chế. Một số trong giới phân tích cho rằng các cường quốc phương Tây đã thất
bại trong việc áp đặt cái giá đích đáng với Nga để trả cho việc Nga sáp nhập
Crimea, điều mà họ cho rằng chỉ làm tăng việc có thể khiến Putin sẵn sàng
dùng vũ lực để theo đuổi các mục tiêu chính sách đối ngoại của mình. Cho đến
khi bị xâm lăng vào năm 2022, thắng lợi về chiến lược của Nga ở Donbas còn mong
manh hơn. Việc ủng hộ phe ly khai, ít nhất là tạm thời, đã làm tăng khả năng
thương lượng của họ đối với Ukraine.
Vào tháng 7 năm 2021, Putin đã viết một bài
báo mà nhiều chuyên gia chính sách đối ngoại phương Tây coi là đáng ngại giải
thích những quan điểm gây tranh cãi của ông về lịch sử chung giữa Nga
và Ukraine. Trong số các nhận xét khác, ông Putin mô tả người Nga và người
Ukraine là “một dân tộc” đã chia sẻ “cùng một không gian lịch sử và tâm linh một
cách hiệu quả.”
Trong suốt năm 2021, Nga đã đưa hàng chục ngàn
binh sĩ đến dọc biên giới với Ukraine và sau đó là vào đất của đồng minh Belarus
dưới danh nghĩa của các cuộc tập trận. Vào tháng 2 năm 2022, Putin đã ra lệnh mở
một cuộc xâm lăng toàn diện, đưa một lực lượng khoảng 200 ngàn quân vào lãnh thổ
Ukraine từ phía nam (Crimea), phía đông (Nga) và phía bắc (Belarus), nhằm chiếm
giữ các thành phố lớn, gồm cả thủ đô Kyiv, và truất phế chính phủ. Putin nói rằng
các mục tiêu rộng lớn là “phi phát xít hóa” và “phi quân sự hóa” Ukraine.
Tuy nhiên, trong những tuần đầu của cuộc xâm
lăng, các lực lượng Ukraine đã huy động một cuộc phản kháng kiên cường đã thành
công trong việc làm
sa lầy quân đội Nga ở nhiều khu vực, kể cả Kyiv. Nhiều người trong giới
phân tích quốc phòng cho rằng các lực lượng Nga đã sa sút vì tinh thần kém, hậu
cần kém và một chiến lược quân sự sai lầm khi cho rằng Ukraine sẽ thất thủ
nhanh chóng và dễ dàng.
Vào tháng 3, một số người quan sát phương Tây
cho rằng, với những thất bại bất ngờ mà Nga phải gánh chịu trên chiến trường, Moscow
có thể cắt giảm mục tiêu và cố gắng cắt
phần của miền nam Ukraine, chẳng hạn như khu vực Kherson, giống như ở Donbas
năm 2014. Nga có thể cố gắng dùng những lãnh thổ mới bị chiếm đóng này làm con
bài thương lượng trong các cuộc đàm phán hòa bình với Ukraine, có thể kể cả những
quy định về triển vọng của Kyiv trở thành thành viên trong EU và NATO. Những
người khác cảnh cáo rằng các cuộc tấn công tiếp tục nhằm vào Kyiv lật tẩy bất kỳ
tuyên bố nào của Moscow về việc chuyển
các hoạt động quân sự ra khỏi thủ đô của Ukraine.
Ưu tiên của Hoa Kỳ ở Ukraine là
những gì?
Ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, ưu tiên của
Washington là thúc đẩy Ukraine — cùng với Belarus và Kazakhstan — bỏ kho vũ khí
hạch tâm của mình để chỉ có Nga giữ lại vũ khí của Liên bang Sô viết cũ. Đồng
thời, Hoa Kỳ gấp rút củng cố nền dân chủ đang lung lay ở Nga. Một số người quan
sát nổi tiếng vào thời điểm đó cảm thấy rằng Hoa Kỳ đã đi quá sớm trong việc
tán tỉnh Nga, và đáng lẽ Mỹ phải nỗ lực nhiều hơn để thúc đẩy đa nguyên địa
chính trị ở phần còn lại của Liên Xô cũ.
Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Zbigniew
Brzezinski, trong tạp chí Foreign Affairs vào đầu năm 1994, đã mô tả
một Ukraine lành mạnh và ổn định là một đối
trọng quan trọng đối với Nga và cốt lõi của những gì ông chủ trương phải
là một đại chiến lược mới của Mỹ sau Chiến tranh lạnh. Ông viết:
“Không thể nhấn mạnh đủ rằng nếu không có
Ukraine, Nga sẽ không còn là một đế chế, nhưng với việc Ukraine bị mua chuộc và
bị lệ thuộc, Nga sẽ tự động trở thành một đế chế.”
Zbigniew Brzezinski
Trong những tháng sau khi bài báo của
Brzezinski được xuất bản, Hoa Kỳ, Anh và Nga đã cam kết thông qua Trưng cầu dân
ý ở Budapest sẽ tôn trọng độc lập và chủ quyền của Ukraine để đổi lại việc nước
này trở thành một quốc gia phi hạch tâm.
Hai mươi năm sau, khi quân đội Nga chiếm
Crimea, khôi phục và củng cố chủ quyền của Ukraine được coi là ưu tiên chính
sách đối ngoại hàng đầu của nước Mỹ và EU. Sau cuộc xâm lăng năm 2022, Hoa Kỳ
và các đồng minh NATO đã tăng cường hỗ trợ quốc phòng, kinh tế và nhân đạo cho
Ukraine, cũng như tăng cường các biện pháp trừng phạt đối với Nga. Tuy nhiên,
giới lãnh đạo phương Tây đã cẩn thận để tránh các hành động mà họ tin rằng sẽ
lôi kéo quốc gia của họ vào cuộc chiến hoặc làm leo thang cuộc chiến, về mặt cực
đoan, có thể gây ra mối đe dọa hạch tâm.
Chính sách của Hoa Kỳ và EU
là gì ở Ukraine?
Hoa Kỳ vẫn cam kết khôi phục toàn vẹn lãnh thổ
và chủ quyền của Ukraine. Mỹ không công nhận các tuyên bố chủ quyền của Nga ở
Crimea hoặc các nước cộng hòa Donetsk và Luhansk, và Mỹ cổ vũ một giải pháp ngoại
giao chấm dứt cuộc chiến. Trước cuộc xâm lăng năm 2022, Hoa Kỳ đã hỗ trợ giải
quyết xung đột Donbas bằng thỏa
thuận Minsk [PDF].
Các cường quốc và đối tác phương Tây đã đi
nhiều bước để tăng viện trợ cho Ukraine [PDF]
và trừng phạt Nga kể từ khi nước này tiến hành cuộc xâm lăng năm 2022. Hoa Kỳ
đã cung cấp cho Ukraine hơn 1 tỷ đô la viện trợ an ninh khẩn cấp vào đầu năm
2022 và sau đó thông qua đạo luật bổ sung gồm nhiều tỷ đô la viện trợ. Quân đội
Mỹ đã tập luyện với quân đội Ukraine trong những năm gần đây và Mỹ đang cung cấp
cho quân đội Ukraine nhiều quân cụ vũ khí khác nhau, kể cả súng bắn tỉa, súng
phóng lựu, kính nhìn ban đêm, radar, hỏa tiễn chống xe tăng Javelin, hỏa tiễn
phòng không Stinger, tàu tuần duyên, và hệ thống máy bay không người lái (drone).
Một số đồng minh NATO đang viện trợ an ninh tương tự.
Trong khi đó, các
lệnh trừng phạt quốc tế đối với Nga đã mở rộng đáng kể, hiện gồm cả phần
lớn các lĩnh vực tài chính, năng lượng, quốc phòng và kỹ thuật của nước này và
nhắm vào tài sản của những tài phiệt giàu có và các cá nhân khác. Mỹ và một số
chính phủ châu Âu cũng cấm một số ngân hàng Nga tham gia Hiệp hội Viễn thông
Tài chính Liên ngân hàng Toàn cầu, một hệ thống nhắn tin tài chính gọi là
SWIFT; đặt ra những hạn chế đối với khả năng sử dụng nguồn dự trữ ngoại hối khổng
lồ của Nga; và đưa ngân hàng trung ương của Nga vào danh sách đen. Hơn nữa, nhiều
công ty có ảnh hưởng của phương Tây đã đóng cửa hoặc đình chỉ hoạt động ở Nga.
Nhóm G8, hiện được gọi là Nhóm G7,
đã treo tư cách thành viên của Nga vô thời hạn vào năm 2014.
Cuộc xâm lăng dường như cũng khiến Nga phải
trả giá cho Nord Stream 2 đã chờ đợi từ lâu, sau khi Đức đình chỉ việc phê duyệt
theo quy định. Nhiều người trong giới phê bình, kể cả các viên chức chính phủ Mỹ
và Ukraine, phản đối đường ống dẫn khí đốt tự nhiên, cho rằng nó sẽ đem lại cho
Nga sức bẩy chính trị lớn hơn đối với Ukraine và thị trường khí đốt châu Âu.
Người Ukraine muốn gì?
Sự hung hăng của Nga trong những năm gần đây
đã tạo nên sự ủng hộ của công chúng đối với thiên hướng phương Tây của Ukraine.
Theo sau sự trỗi dậy của Euromaidan, Ukraine đã bầu doanh nhân tỷ phú
Petro Poroshenko, một người ủng hộ tích cực hội nhập EU và NATO, làm tổng thống.
Vào năm 2019, Zelensky đã đánh bại Poroshenko, một dấu hiệu cho thấy sự bất mãn
sâu sắc của công chúng đối với tổ chức chính trị và cuộc chiến chống tham nhũng
và nền kinh tế tài phiệt đầu sỏ chính trị ngắc ngứ.
Trước cuộc xâm lăng năm 2022, các cuộc thăm
dò cho thấy người Ukraine có quan điểm không đồng nhất về tư
cách thành viên NATO và EU. Hơn một nửa số người được khảo sát (không kể cư
dân của Crimea và các khu vực tranh chấp ở phía đông) ủng hộ tư cách thành viên
EU, trong khi 40 đến 50% ủng hộ việc gia nhập NATO.
Trong những tuần sau cuộc xâm lăng, một cuộc
thăm dò dư luận cho thấy phần lớn người Ukraine được thăm dò đã ủng hộ cuộc
kháng chiến vũ trang chống lại Nga và bác bỏ các yêu sách của Nga đối với
Crimea và sự hậu thuẫn của các nước cộng hòa ly khai ở Donbas. Hơn một nửa số
người được thăm dò cho rằng Ukraine không nên bỏ việc gia nhập NATO trong tương
lai để chấm dứt chiến tranh.
Tác giả | Jonathan Masters, Phó chủ biên Council on Foreign Relations
(CFR). Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (CFR) là một tổ chức chuyên gia cố vấn và nhà
xuất bản độc lập, phi đảng phái.
Ông là nhà báo và biên tập viên trưởng viết về nhiều chủ đề cho CFR.org. Masters
cũng viết về chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia và tác phẩm của ông đã xuất
hiện trên tạp chí Foreign Affairs, the Atlantic, và Bloomberg. Ông tốt nghiệp Cử
nhân Khoa học Chính trị của Đại học Emory và Cao học Lý thuyết Xã hội của New
School. Ông là thành viên nhiệm kỳ của CFR và là thành viên của Câu lạc bộ Báo
chí Hải ngoại. Email: jmasters@cfr.org
© 2022 DCVOnline
chỉ có Mỹ thu lợi nhiều nhất từ cuộc chiến này
Trả lờiXóa