Trang

12/10/2023

Ăn cá ngừ bao lâu nay, nhưng liệu bạn đã biết hết về chúng chưa?

Cá ngừ đại dương là nguồn cung cấp dưỡng chất dồi dào cho cơ thể, giúp bổ mắt, tốt cho tim mạch. Đồng thời, giúp giảm nguy ung thư đặc biệt thích hợp cho người bị tiểu đường.

Đặc điểm chung của tất cả các loài ngừ đó chính nếu ngừng bơi, chúng sẽ chết. thể ngừ, đặc biệt phần đầu, cấu tạo tương tối đặc biệt. Cấu tạo này khiến chúng không thể hấp một cách chủ động bằng cách bơm nước qua mang như những loại khác. Việc bơi, ngoài giúp di chuyển săn mồi, còn giúp ngừ tạo được dòng nước đi qua mang để hấp. Chính việc không thể ngừng bơi đã giúp thịt của chúng vô cùng săn chắc và ngon miệng.

nhiều loại ngừ đại dương, nhưng người Nhật chỉ chủ yếu ăn 6 loài trong số đó. Trong số 6 loài này, cao cấp nhất phải kể đến hai loại chính ngừ vây xanh (kuromaguro) cá ngừ vây xanh phương Nam (minamimaguro). Đây là hai loại ngừ cho ra thịt rất chất lượng, ngon phù hợp để ăn sống nhất. Mebachi, hay còn gọi ngừ mắt to, cũng vị ngon không kém. Loài này nhiều mỡ, thường được đánh bắt vào giai đoạn Thu - Đông.

Vài năm trở lại đây, hương vị thơm ngon của ngừ albacore (binnaga) cũng khiến chúng xuất hiện nhiều trong các nhà hàng sushi. Cuối cùng thể kể đến chính hai loài Kihada (cá ngừ vây vàng) Koshinaga (cá ngừ đuôi dài). Hai loài này dù không bằng những cái tên bên trên, nhưng cũng được ưa chuộng đặc biệt tại một số khu vực. Mặc cả bảy loại trên đều ngừ, nhưng chúng một vài đặc điểm khác nhau về hình dáng bên ngoài, vùng đánh bắt, hương vị mục đích chế biến.

Kuromaguro - ngừ vây xanh


ngừ vây xanh loài trứ danh, được xem một trong những loại thức ăn đắt đỏ được yêu thích không chỉ Nhật còn toàn thế giới. Bản thân loài này lại được chia thành 2 loại, ngừ vây xanh Thái Bình Dương ngừ vây xanh Đại Tây

Dương. Cả hai loại đều được xem loại ngừ thuộc đẳng cấp cao nhất, cũng kích thước tối đa to nhất. Từng ngư dân đã bắt được một con ngừ vây xanh dài tới 4 mét nặng tới 600 kg. Loài này di chuyển nhiều, tốc độ bơi cao, khoảng 80- 90km/h.

Lịch sử của ngừ vây xanh đối với con người cũng từ rất lâu. Tại khu vực Địa Trung Hải, con người đã bắt đầu ăn ngừ vây xanh từ thế kỷ thứ 7 TCN. Nhật thì chúng cũng đã được phục vụ con người vào thời kỳ Jomon cổ đại. Ngày nay, Nhật Bản thị trường nhập khẩu ngừ vây xanh số một của thế giới. Tại sao Nhật phải nhập khẩu ngừ? Vào những năm 1970, nạn đánh bắt quá mức đã trở thành vấn đề nhức nhối khiến giới cầm quyền nước nhật phải giới hạn đánh bắt, đồng thời tạo ra các phương pháp nhân tạo để nuôi thu hoạch ngừ.

Trên thể loài này một bộ phận gọi otoro, chính mỡ bụng của chúng. Đây là một loại nguyên liệu thượng hạng để làm sushi, nhiên thịt của loài này cũng rất ngon. Dòng đời của kuromaguro dao động từ 10 đến 30 năm, tuỳ thuộc vào vùng biển sinh sống.

Minamimaguro - ngừ vây xanh phương Nam

ngừ vây xanh phương Nam cũng loại ngừ đặc sắc tương tự như Kuromaguro. Loài này thường di các độ trung bình của Nam bán cầu, trong quá trình này, chúng cũng tích được rất nhiều chất béo vào thể, chủ yếu vào mùa Xuân - ở Nhật. Đây loài ngừ kích thước lớn thứ hai, chỉ sau kuromaguro. Con trưởng thành thể đạt tới kích thước 2m nặng 150kg. Vào những năm 1980, ngừ vây xanh phương Nam thường được dùng để làm đóng hộp.

bị đánh bắt quá mức nên chúng bị liệt vào danh sách loài nguy tuyệt chủng trong sách đỏ. Hiện tại, Nhật nhiều quốc gia khác đã thành lập các quan để bảo tồn ngừ vây xanh phương Nam hạn chế đánh bắt loài này. Những nỗ lực trên đã khiến số lượng dần phục hồi. Gần như tất cả minamimaguro được đánh bắt trên khắp thế giới đều được tiêu thụ tại Nhật để làm nguyên liệu sống cho món sashimi hoặc sushi.


Thịt của loài này hương vị dễ chịu, hơi chua. Thịt bụng của chúng rất béo cũng có bộ phận gọi otoro (mỡ bụng) rất ngon. Loài này thể sống lâu hơn 20 năm. Vì độ hiếm, độ ngon độ béo, nên thịt của loài này hầu như chỉ dùng để ăn sống.


Mebachi - ngừ mắt to

ngừ mắt to được bắt gặp phổ biến tại những vùng biển nhiệt ôn đới. Như cái tên, nổi bật loài này đầu với mắt to hơn bình thường đáng kể. thể loài này trông khá mập, một số con thể nặng tới 200kg. Song, kích thước trung bình của Mebachi

thường tầm 1 mét nặng khoảng 100kg. Đây loài ngừ sản lượng đánh bắt lớn thứ hai thế giới. Đây cũng loại thường được dùng để làm sashimi.

số lượng lớn, nhưng các thiết bị bắt nhân tạo ngày càng phát triển khiến người ta cũng lo ngại trữ lượng này sẽ giảm bớt trong tương lai. Thịt ngừ mắt to sống cũng một món ăn cao cấp. Loài này sẽ ăn ngon nhất vào mùa Thu Đông. Loài này lượng thịt đỏ lớn, không loại thịt mỡ béo như hai loài trên, nhưng thị của chúng cũng được cho béo vừa vừa, vẫn ngon. Nhìn vào biểu đồ phân phối, khá dễ hiểu sao loài này lại phổ biến đến như vậy.


Kihada - ngừ vây vàng

ngừ vây vàng loài ngừ phổ biến nhất sản lượng đánh bắt lớn nhất trong tất cả các loài ngừ. Chúng được đánh bắt trên khắp các vùng biển nhiệt đới trên hành tinh. Kihada không phải loài ngừ quá cao cấp, nên người ta thường dùng

lưới vây để đánh bắt không lo sợ ảnh hưởng đến số lượng hay chất lượng thịt.

Sau khi đánh bắt, Kihada thường đường cấp đông nhanh để sử dụng cho các món sống. Thịt loài này đỏ thẫm, ít chất béo hơn so với các loài khác. Người dân khu vực phía Tây Nagoya đặc biệt ưa chuộng loại ngừ này.


Binnaga - ngừ albacore

Đây loài ngừ nhỏ, tối đa dài khoảng 1 mét. Vây ngực của loài này rất dài. Chúng được bắt gặp tại các vùng biển nhiệt đới ôn đới giống với Kihada. Thịt của chúng màu hồng nhạt, được đánh giá cao cấp hơn so với loại Kihada kể trên. Thịt của chúng được đặt những biệt danh như “Gà biển” hay “Thịt trắng”.


Thịt loài này rất mềm, kể cả khi đã qua chế biến với nhiệt độ cao. vậy, thường được dùng để chế biến thành những món ăn chín. Thịt bụng của chúng vị ngọt, nhưng thiếu vị chua chua của acid. Loài này tuổi đời hơn 16 năm với những thể sống ở vùng biển Bắc Thái Bình Dương, và hơn 12 năm với những cá thể sống ở phía Nam.

Koshinaga - ngừ đuôi dài

Nếu so sánh với những loài ngừ khác, loài này thân hình mỏng ốm hơn. Tỉ lệ kích thước đuôi của chúng khá to so với thể, nên mới được đặt cái tên ngừ đuôi dài. Loài này sống vùng biển phía Tây Thái Bình Dương, chủ yếu vùng biển nằm giữa Úc Nhật, đôi lúc kéo dài qua khu vực Ấn Độ Dương.

Loài này không được tiêu thụ nhiều, lẽ thua thiệt về chất lượng so với những loài kể trên. Tuy nhiên các vùng như Kyushu hay Sanin, nơi không thể đánh bắt ngừ, thì koshinaga món ăn khoái khẩu đây. thể ăn sống hoặc chín. Úc, người ta ăn theo dạng chiên hoặc bít tết. Indonesia thì được dùng làm nguyên liệu cho món cà ri hoặc áp chảo.

ST 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Các bạn có thể:
- Viết bình luận trước, sau đó. .
- Copy và dán trực tiếp link ảnh vào khung nhận xét. Sau link ảnh đã dán, không gõ thêm bất kỳ ký tự nào nữa (kể cả nhấn phím Enter).
- Cám ơn Bạn đã bình luận về bài viết.