Miền Nam hai tiếng thân thương là địa danh chỉ phần đất màu mỡ,
trù phú nhất của Tổ quốc. So với niên đại hàng mấy nghìn năm của miền Bắc thì
miền Nam còn rất trẻ trung - khi mới có hơn 300 năm tuổi đời. Lịch sử miền Nam
chủ yếu gắn liền với chế độ phong kiến cuối cùng của nước ta, nhà Nguyễn…
Đây chính là triều đại có công lớn nhất trong việc khai phá, mở
rộng lãnh thổ Việt Nam trong suốt mấy trăm năm. Nhưng vì họ thất bại trước cuộc
chiến tranh xâm lược của người Pháp vào thế kỷ 19 mà cho đến nay đa phần người
Việt vẫn có cái nhìn khá thành kiến với triều đại phong kiến này. Tuy nhiên,
lịch sử vẫn ghi nhận công lao của Nhà Nguyễn với một quá trình mở cõi và bảo vệ
quốc gia thành công suốt hơn một thế kỷ, mà chiến tích huy hoàng nhất chính là
cuộc chiến 5 lần chống lại đế quốc Xiêm La trong suốt 140 năm (1705-1845), dài
hơn bất kỳ cuộc chiến tranh chống ngoại xâm nào trong lịch sử dân tộc.
Phần 1: Chiến
tranh Việt Xiêm lần 1 (1705)
Thành hầu kinh lý đất Phiên An; Quân Xiêm đại bại trận Sầm Khê
Nước Quảng Nam hùng
mạnh
Kể từ khi Tiên chúa Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, đến thời vị
Chúa thứ 6 là Minh Vương Nguyễn Phúc Chu, thì Nam Hà (lúc đó còn gọi là nước
Quảng Nam) đã trở thành một thế lực cường thịnh trong khu vực. Bấy giờ, phía
Nam nước ta lãnh thổ được mở mang đến tận biên giới Chân Lạp. Trong nước việc
nội trị, võ bị, giáo dục được phát triển khá mạnh. Đến nỗi năm 1702, khi sứ Nam
Hà sang cầu phong, triều thần nhà Thanh từng nhận xét rằng: “Nước Quảng
Nam hùng trị một phương, Chiêm Thành, Chân Lạp đều bị thôn tính, sau tất sẽ
lớn. Tuy nhiên nước An Nam còn có nhà Lê ở đó, chưa thể phong riêng được”.
Năm Mậu Dần 1698, lãnh thổ Nam Hà đã vươn lên một bước rất dài
trên bản đồ Đại Việt.
Sử chép:
“Năm Mậu Dần (1698) mùa xuân, chúa sai Hữu Cảnh làm Thống suất, đem quân đi kinh lược Chân Lạp, lấy đất Đồng Phố, đặt làm phủ Gia Định phân chia đất ấy, lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long, đặt doanh Trấn Biên, lấy Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng doanh Phiên Trấn. Mở đất nghìn dặm, dân được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính trở vào nam cho ở đất ấy. Đặt xã, thôn, phường ấp, khai khẩn ruộng đất, định ngạch tô thuế, làm sổ đinh. Đến lúc về, Hữu Cảnh lại lĩnh trấn như cũ”.
“Năm Mậu Dần (1698) mùa xuân, chúa sai Hữu Cảnh làm Thống suất, đem quân đi kinh lược Chân Lạp, lấy đất Đồng Phố, đặt làm phủ Gia Định phân chia đất ấy, lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long, đặt doanh Trấn Biên, lấy Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng doanh Phiên Trấn. Mở đất nghìn dặm, dân được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính trở vào nam cho ở đất ấy. Đặt xã, thôn, phường ấp, khai khẩn ruộng đất, định ngạch tô thuế, làm sổ đinh. Đến lúc về, Hữu Cảnh lại lĩnh trấn như cũ”.
Bản đồ Nam Kỳ với các địa danh giữa thế kỷ 19. (Ảnh: Wikipedia)
Binh uy bình Chân Lạp
Lẽ dĩ nhiên là vương quốc Chân Lạp sẽ không thần phục dễ dàng,
và vùng đất mới sẽ luôn phải tổn hao xương máu mới giữ vững được. Nhưng may là
chúng ta có tướng quân Nguyễn Hữu Cảnh, một vị tướng giỏi nên đã nhanh chóng
dẹp yên biên cảnh. Sử chép:
“Kỷ mão, năm thứ 8 (1699), mùa thu, tháng 7, Nặc Thu nước Chân Lạp làm phản, đắp các lũy Bích Đôi, Nam Vang và Cầu Nam, cướp bóc dân buôn. Tướng Long Môn là Trần Thượng Xuyên đóng giữ Doanh Châu (nay thuộc Vĩnh Long) đem việc báo lên. Mùa đông, tháng 10, lại sai Nguyễn Hữu Kính (Tức Nguyễn Hữu Cảnh) làm Thống suất, Cai bạ Phạm Cảm Long làm Tham mưu, Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Hữu Khánh làm tiên phong, lãnh quân hai dinh Bình Khang, Trấn Biên, và thuộc binh 7 thuyền dinh Quảng Nam, cùng với tướng sĩ Long Môn đi đánh.
Tháng 2, Nguyễn Hữu Kính đem quân các đạo tiến vào nước Chân Lạp, đóng ở Ngư Khê (Rạch Cá), sai người dò xét thực hư, chia đường tiến quân.
Tháng 3, Thống binh Trần Thượng Xuyên cùng quân giặc đánh liên tiếp nhiều trận đều được. Khi quân ta đến lũy Bích Đôi và Nam Vang, Nặc Thu đem quân đón đánh. Nguyễn Hữu Kính mặc nhung phục đứng trên đầu thuyền, vung gươm vẫy cờ, đốc thúc các quân đánh gấp, tiếng súng vang như sấm. Nặc Thu cả sợ, bỏ thành chạy. Nặc Yêm (con vua thứ hai của Nặc Nộn) ra hàng, Hữu Kính vào thành, vỗ yên dân chúng. Mùa hè, tháng 4, Nặc Thu đến cửa quân đầu hàng, xin nộp cống. Nguyễn Hữu Kính báo tin thắng trận rồi lùi quân đóng đồn ở Lao Đôi, kinh lý việc biên giới”.
(Đại Nam Thực Lục tiền biên - quyển VII).
“Kỷ mão, năm thứ 8 (1699), mùa thu, tháng 7, Nặc Thu nước Chân Lạp làm phản, đắp các lũy Bích Đôi, Nam Vang và Cầu Nam, cướp bóc dân buôn. Tướng Long Môn là Trần Thượng Xuyên đóng giữ Doanh Châu (nay thuộc Vĩnh Long) đem việc báo lên. Mùa đông, tháng 10, lại sai Nguyễn Hữu Kính (Tức Nguyễn Hữu Cảnh) làm Thống suất, Cai bạ Phạm Cảm Long làm Tham mưu, Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Hữu Khánh làm tiên phong, lãnh quân hai dinh Bình Khang, Trấn Biên, và thuộc binh 7 thuyền dinh Quảng Nam, cùng với tướng sĩ Long Môn đi đánh.
Tháng 2, Nguyễn Hữu Kính đem quân các đạo tiến vào nước Chân Lạp, đóng ở Ngư Khê (Rạch Cá), sai người dò xét thực hư, chia đường tiến quân.
Tháng 3, Thống binh Trần Thượng Xuyên cùng quân giặc đánh liên tiếp nhiều trận đều được. Khi quân ta đến lũy Bích Đôi và Nam Vang, Nặc Thu đem quân đón đánh. Nguyễn Hữu Kính mặc nhung phục đứng trên đầu thuyền, vung gươm vẫy cờ, đốc thúc các quân đánh gấp, tiếng súng vang như sấm. Nặc Thu cả sợ, bỏ thành chạy. Nặc Yêm (con vua thứ hai của Nặc Nộn) ra hàng, Hữu Kính vào thành, vỗ yên dân chúng. Mùa hè, tháng 4, Nặc Thu đến cửa quân đầu hàng, xin nộp cống. Nguyễn Hữu Kính báo tin thắng trận rồi lùi quân đóng đồn ở Lao Đôi, kinh lý việc biên giới”.
(Đại Nam Thực Lục tiền biên - quyển VII).
Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, xã Hiệp
Hòa, Biên Hòa. (Ảnh: Wikipedia)
Xiêm La bại trận Sầm
Khê
Chuyện phải đến đã đến, thế lực của Nam Hà vươn dài vào phương
Nam rồi cũng sẽ đụng phải Xiêm La - hay còn gọi là đế quốc Ayutthaya, một lực
lượng có thể nói là mạnh mẽ nhất khu vực Đông Nam Á khi đó. Vì để ngăn quân
chúa Nguyễn ảnh hưởng đến Chân Lạp mà hai bên Việt - Xiêm đã nổ ra trận chiến
đầu tiên vào năm 1705 tại Sầm Khê. Sử chép:
“Ất Dậu, năm thứ 14 [1705 - tức thời Lê Vĩnh Thịnh năm 1, Thanh
Khang Hy năm 44], Sai Chánh thống cai cơ Nguyễn Cửu Vân (con Nguyễn Cửu Dực)
đánh Chân Lạp và đưa Nặc Yêm về nước. Yêm là con Nặc Nộn. Trước là Nặc Nộn
chết, Nặc Thu phong Yêm làm chức Tham Đích Sá Giao Chùy, đem con gái gả cho.
Sau Thu vì tuổi già, truyền ngôi cho con là Nặc Thâm. Thâm ngờ Yêm có chí hướng
khác, nổi binh đánh nhau, lại nhờ Xiêm La giúp. Yêm chạy sang Gia Định cầu cứu
với triều đình. Chúa bèn sai Vân lãnh quân thủy bộ Gia Định tiến đánh Nặc Thâm.
Vân đến Sầm Khê gặp quân Xiêm, đánh vỡ tan. Thâm cùng em là Nặc Tân chạy sang
Xiêm. Nặc Yêm lại trở về thành La Bích. Bấy giờ Xá sai ty Phiên Trấn là Mai Công
Hương làm tào vận tới sau, bị quân giặc chặn lại, lính vận tải sợ chạy. Hương
bèn đục thủng thuyền làm đắm lương thực, rồi nhảy xuống sông chết. Giặc không
được gì hết. Chúa nghe tin, sai phong Hương làm thần “Vị quốc tử nghĩa”, dựng
đền để thờ. Chân Lạp dẹp xong, Vân nhân khẩn ruộng ở Cù Ao (thuộc tỉnh Định
Tường), làm gương cho quân dân noi theo. Lại vì giặc thường đến đất này quấy
rối sau lưng quân ta, bèn đắp lũy dài để vững phòng ngự.”
(Đại Nam thực lục).
(Đại Nam thực lục).
Lời bàn:
Nguyễn Hữu Cảnh kinh lý miền Nam, khiến lãnh thổ nước nhà mở
rộng chưa từng thấy. Các tướng lãnh nhà Chúa còn dùng binh thần tốc mà vỗ yên
Chân Lạp, đánh tan Xiêm La trong vòng vài năm ngắn ngủi khiến cho biên cương
được yên bình. Công lao của quân dân và ý chí sáng suốt của nhà Chúa quả đáng
phục thay, nhờ đó mà hàng triệu con dân Việt có thêm nơi để mà sinh sống lập
nghiệp, nước ta cũng có cơ trở nên cường thịnh. Nhưng vẫn còn đó kẻ địch mạnh
dẫu thua nhưng lúc nào cũng lăm le tìm cơ phục hận. Chiến thắng Sầm Khê chỉ là
khởi đầu cho chuỗi chiến công gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt để bảo vệ vùng
biên cương mới của tổ quốc mà thôi, bánh xe lịch sử sẽ xoay vần ra sao, hãy chờ
xem phần sau.
(còn tiếp...)
Minh Bảo
Trang sử hào hùng!
Trả lờiXóahttps://4.bp.blogspot.com/-TaioWkSkwsU/W6YC_qbNBpI/AAAAAAAAJQI/lrW4NlcoLW8sBSrC_y28XYAsu-s0GeO-wCLcBGAs/s1600/nguoi_dep1.gif
Cám ơn anh DVD, hình thiếu nữ dễ thương.
Xóa