Những người Việt có số phận kỳ lạ: Người Việt đầu tiên đến nước Mỹ.
Hiện ở
P.Long Bình, Q.9, TP.HCM có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm. Có lẽ ít ai biết
đây chính là người đã đặt chân đến nước Mỹ cách đây hơn 170 năm.
Câu
chuyện bắt đầu từ năm 1842 (năm Minh Mạng thứ 23) ở làng Xuân Lũng, phủ Lâm
Thao (Phú Thọ) có một chàng thanh niên 21 tuổi tên Trần Trọng Khiêm phạm trọng
án. Số là người vợ mới cưới của anh bị tên xã trưởng ép bức, làm nhục rồi sát
hại. Căm giận, Trần Trọng Khiêm quyết báo thù. Sau khi tương kế tựu kế giết chết
tên vô lại, anh trốn xuống Phố Hiến (Hưng Yên) rồi xin vào làm việc trên một
chiếc tàu buôn ngoại quốc, khởi đầu cho những chuyến phiêu lưu khắp năm châu bốn
biển.
Suốt 12 năm
(1842 - 1854), Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất từ Á sang Âu: Hồng
Kông, Anh, Hà Lan, Pháp... Nhờ trí thông minh, đi đến đâu anh cũng cố gắng học
tiếng địa phương. Năm 1849, anh đặt chân đến thành phố New Orleans (Mỹ), bắt đầu
chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
Sau khi đến
Mỹ, Trần Trọng Khiêm bấy giờ 28 tuổi, cải trang thành một người Trung Hoa tên
là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Viễn Tây. Trong gần 2 năm,
Lê Kim sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Anh đã tham gia đoàn
đào vàng do một người Canada tên Mark khởi xướng. Để tham gia đoàn này, tất cả
thành viên phải góp tiền mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Lê Kim góp 200
USD vào thời điểm năm 1849. Do biết nhiều ngoại ngữ, anh được ủy nhiệm làm liên
lạc cho thủ lĩnh Mark và làm phiên dịch cho những thành viên trong đoàn gồm tiếng
Hà Lan, Trung, Pháp... (trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene
Lefebre (nhà xuất bản Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim
và những người đa quốc tịch Canada, Anh, Pháp, Hà Lan, Mexico...). Anh nói với
mọi người rằng anh còn biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt nhưng không cần
dùng đến. Lê Kim cũng nói anh không phải người Hoa nhưng đất nước của anh nằm cạnh
nước Tàu.
Lê Kim và những
người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua dãy núi Rocky, đi về Laramie, Salt
Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là Oh! Suzannah (Oh! My
Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về.
Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc...). Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người
lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng, nhưng đó đúng là một
chuyến đi mạo hiểm - họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công
của người da đỏ. Sốt rét và rắn độc cũng đã cướp đi quá nửa số thành viên trong
đoàn.
Sau khi tích
trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa
thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người tháo
vát, xông xáo lại biết nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được làm phóng
viên tự do cho nhiều tờ báo như: Alta California, Morning Post rồi làm biên tập
cho tờ nhật báo Daily Evening.
Lê Kim hướng
sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng làm việc ở những mỏ khai thác
vàng là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Nhiều bài báo của anh đăng trên tờ
Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt,
trong số báo ra ngày 8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa
Lê Kim và vị tướng Mỹ John A.Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công
khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, anh đã được tướng
Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, tướng Sutter bị bệnh tâm thần và sống
lang thang ở các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không ai đoái hoài đến.
Khi gặp lại,
Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 USD và chê trách thái độ của người dân San
Francisco cũng như nước Mỹ đối với người khai phá ra vùng đất San Francisco.
Sang năm
1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê
hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng anh cũng
đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi
ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho
báo chí Mỹ.
“Người Minh
Hương” cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần
Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông
không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương (người gốc
Hoa, không chịu thần phục nhà Thanh nên di dân sang Việt Nam - NV) đi khai
hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa
An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ
họ Phan và sinh được hai người con trai.
Trong bức
thư bằng chữ Nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào
năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một
con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Mỹ rồi trở
về an cư lạc nghiệp ở Định Tường.
Chưa đầy 10
năm sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, Lê Kim từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn
bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ
khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười, trở thành một vị tướng giỏi. Năm 1866, trong một đợt
truy quét của Pháp do tướng De La Grandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ,
Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Trên mộ của Lê
Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối:
“Lòng
trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh.
Chính khí
nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế ”.
(Dựa theo
tài liệu của học giả Nguyễn Hiến Lê 1912 - 1984).
Tác gỉa :Hà Đình Nguyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Các bạn có thể:
- Viết bình luận trước, sau đó. .
- Copy và dán trực tiếp link ảnh vào khung nhận xét. Sau link ảnh đã dán, không gõ thêm bất kỳ ký tự nào nữa (kể cả nhấn phím Enter).
- Cám ơn Bạn đã bình luận về bài viết.