Nhìn
lại chặng đường gian nan khi Giác Giả hạ thế, ta mới thấu hiểu phần nào về cái
tâm và sự cao thượng của các bậc Thánh nhân…
Từ cuộc đời của Chúa Jesus…
Hơn
2000 năm trước, trong đoàn người du hành đến Bethlehem, một hài nhi chào đời và
được đặt nằm trong chiếc nôi bằng máng cỏ. Cùng lúc ấy, các Thiên sứ loan tin
về sự giáng sinh của Chúa hài đồng, và một vì sao lạ dẫn đường cho các nhà
thông thái tìm đến. Lời tiên tri về sự ra đời của đứa trẻ đặc biệt ấy đã làm
kinh động đến vua Herodes Đại đế, dẫn đến cuộc truy lùng những bé trai vô tội ở
Bethlehem.
Và
đó là khởi đầu cho cuộc đời truyền đạo của Chúa Jesus Christ. Sinh ra trong một
xã hội rối ren và bế tắc, đức tin tôn giáo cũng ngày càng mai một, nhiều người
dân Do Thái đang khắc khoải đợi chờ Đấng Cứu Thế giáng hạ… lựa chọn chính thời
điểm ấy, Chúa đã đến thế gian.
Theo
sách Phúc Âm Luca, Chúa Jesus bắt đầu con đường truyền đạo khi Ngài khoảng 30
tuổi. Ngài đã đi khắp nơi để thuyết giảng tin lành, khuyên bảo con người tránh
xa tội lỗi, sống một cách khoan dung, độ lượng, biết trao đi thứ yêu thương vô
điều kiện, và hãy kiên định đức tin vào Thiên Chúa. Lời giảng của Ngài đã thức
tỉnh biết bao người dân Do Thái, họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi
nào Ngài giảng đạo.
Nhưng
chính vì quá nhiều người tin vào Chúa Jesus nên dẫn tới sự đố kỵ của giới lãnh
đạo Do Thái giáo. Các thầy thượng tế và trưởng lão Do Thái giáo bàn bạc với
nhau để tìm cách giết chết Jesus. Thế là, họ mua chuộc phản đồ Judas, bắt trói
Chúa Jesus trong đêm, rồi áp giải đến tòa công luận, dẫn tới cái chết vĩ đại
của Ngài trên cây thập tự giá.
Các
sách Phúc Âm kể rằng, khi Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá, các tên lính La
Mã hí hửng chia nhau chiếc áo xống của Ngài; những kẻ đi ngang qua đó nhạo báng
Ngài, các thầy tế lễ và cả các văn sĩ cũng xúm lại chế giễu Ngài. Thậm chí, có
kẻ nhẫn tâm hơn còn cho uống giấm khi thấy Ngài kêu khát; và khi thấy Chúa
Jesus đã chết, một tên lính La Mã còn dùng giáo đâm vào hông Ngài để kiểm tra,
tức thì máu và nước chảy ra…
Câu
chuyện về Chúa Jesus đã viết nên tấn bi kịch của những người truyền Pháp: Đáp
lại ân điển ấy, người ta lại lấy tâm phàm để đo lường Thánh giả. Kẻ thờ ơ thì
xem Ngài như một nhà cải cách xã hội; kẻ lạnh lùng thì nhạo báng cho Ngài là
“đáng đời” vì dám nhận mình là “con Thiên Chúa”; còn những người yêu mến và
từng theo chân Ngài thì chỉ dám đứng nhìn từ xa mà than khóc; trong khi giới
cầm quyền lại xem Ngài như một thế lực đe dọa vị trí của tôn giáo và chính trị
đương thời. Chỉ những Thánh đồ thực sự, bằng đôi tai của lý trí và đôi mắt của
con tim, mới có thể nhận ra Đấng Cứu Thế trong dáng vẻ của một-con-người.
…ngẫm lại con đường truyền Pháp gian nan của
các bậc Thánh giả
Không
chỉ riêng Chúa Jesus, mà trong lịch sử từ xưa đến nay, biết bao Giác Giả vì để
cứu độ thế nhân đã phải gánh chịu muôn vàn khổ nạn. Lão Tử thấy người đời hiểm
ác, nên vội vàng viết cuốn “Đạo Đức Kinh” rồi rời quan ải về phía Tây. Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni bôn ba suốt 49 năm truyền Pháp, đương thời bị Bà La Môn giáo
coi là ‘kẻ dụ dỗ người ta vào con đường hủy diệt’, lại thêm một Phật tử là
Đề-bà-đạt-đa nhiều lần hãm hại. Nhà hiền triết Socrates dành cả cuộc đời rao
giảng về đức hạnh và lẽ phải, nhưng rồi cuối cùng bị phán quyết tử hình, uống
độc dược mà chết. Bản thân Chúa Jesus khi còn ở Jerusalem cũng phải thốt lên
rằng:“Jerusalem! Jerusalem! Ngươi đã làm đổ máu biết bao nhà tiên tri…”
Họ
đã vì con người mà đến, vì con người mà chịu khổ, và cũng vì con người mà phải
rời khỏi thế gian.
Lịch
sử cũng như chiếc bánh xe quay vòng. Hàng ngàn năm đã qua đi, tấn bi kịch ấy
vẫn cứ xảy ra và lặp lại, rồi lặp lại. Có biết bao trang sử thấm đẫm máu và
nước mắt khi kể về những vĩ nhân – vì cứu độ con người mà bị chính con người
bức hại.
Và
nếu nhìn lại con đường truyền đạo của các Giác Giả trong quá khứ, chúng ta có
thể thấy nhiều điểm tương đồng:
Thứ
nhất, Giác Giả hạ thế khi xã hội nhân loại có nhiều biến động
nhất trong lịch sử. Nếu nói như Kinh Thánh thì đó là thời khắc cuối cùng của
nhân loại, và nói như Kinh Phật thì đó là thời kỳ mạt Pháp, khi con người không
còn tâm Pháp để ước chế, câu thúc đạo đức nữa.
Thứ
hai, Giác Giả không đến trong hình dáng của một vị thần, cưỡi
trên mây bạc, hào quang chói lọi, thần thông quảng đại… Mà thay vào đó, Ngài sẽ
tới trong dáng vẻ của một người bình thường, giáo hóa chúng sinh bằng lẽ phải
và lương tri. Cho dù là vị trí vương tôn thái tử như Đức Thích Ca, hay là con
trai người thợ mộc như Chúa Jesus, thì Họ đều mượn thân phàm để thực hiện sứ
mệnh của Thánh giả.
Thứ
ba, khi Giác Giả bước ra truyền đạo, tất sẽ có tà ma can
nhiễu. Lời giảng của Giác Giả bị cho là “tà giáo”, là “làm mê hoặc chúng sinh”,
và bản thân Giác Giả cũng như các tín đồ bị đem ra bức hại. Các đệ tử của Đức
Phật Thích Ca và Thánh đồ của Chúa Jesus đều từng phải trải qua những cuộc đàn
áp như thế.
Kinh
Thánh viết rằng, vào thời khắc tối hậu của nhân loại, sau khi người Israel phục
quốc thì Cứu Thế Chủ Messiah sẽ tới nhân gian. Còn Kinh Phật ở phương Đông nói
rằng, khi hoa Ưu Đàm Bà La khai nở cũng là lúc Phật Di Lặc hạ thế phổ độ chúng
sinh. Vậy thì, trong cái hỗn loạn của thời thế, vàng thau lẫn lộn, thật giả bất
phân, liệu nhân loại sẽ nghe bằng lý trí, nhìn bằng con tim, hay lại tiếp tục
giẫm lên vết chân của quá khứ nữa đây?
Hồng Liên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Các bạn có thể:
- Viết bình luận trước, sau đó. .
- Copy và dán trực tiếp link ảnh vào khung nhận xét. Sau link ảnh đã dán, không gõ thêm bất kỳ ký tự nào nữa (kể cả nhấn phím Enter).
- Cám ơn Bạn đã bình luận về bài viết.