Hơn
80% hoạt chất chính được dùng trong ngành dược phẩm thế giới là do Trung Quốc sản
xuất.
Trong những năm 1990, hoạt động của ngành công nghiệp dược phẩm
châu Âu và Mỹ đa phần chuyển sang Trung Quốc. Khi đại dịch Covid-19 bùng phát ở
Trung Quốc, phương Tây tỉnh thức trong đau đớn và phải đối mặt với thách thức
làm thế nào để giành lại quyền chủ động về thuốc men, tránh phụ thuộc vào Trung
Quốc.
Mọi ngả đường đều dẫn đến Trung Quốc
Theo
nhận định của báo Le Figaro trong bài viết « Khi Tây phương từ bỏ
ngành sản xuất dược phẩm » đăng ngày 13/04/2020, sức khỏe của người
dân phương Tây phụ thuộc rất nhiều vào Trung Quốc và chính sự bùng phát toàn cầu
của dịch bệnh Covid-19 đã giúp người châu Âu và Mỹ « tỉnh ngộ ». Có
một điều các nhà khoa học, giới chuyên môn phần nào đã nắm rõ, nhưng đa phần
công chúng thì chưa biết : trong vòng chưa đến 30 năm, tất cả mọi quốc gia
trên thế giới, đi đầu là châu Âu và Mỹ, đã « nhường » một
phần lớn « chủ quyền » về thuốc men và trang thiết bị
y tế cho Trung Quốc. Quốc gia rộng lớn này trở thành xưởng bào chế hơn 80% hoạt
chất chính được dùng trong ngành sản xuất dược phẩm. Đáng nói hơn nữa là Trung
Quốc nắm giữ 80-90% dược liệu để bào chế ra các hoạt chất chính và các loại thuốc
thay thế các dược phẩm hiện giờ không còn được bào chế nữa.
Chẳng
hạn, Trung Quốc sản xuất tới 97% dược liệu và hóa chất cần thiết để sản xuất
kháng sinh đồng dạng (générique) tiêu thụ tại Mỹ - đối thủ địa chính trị của
Trung Quốc. Ấn Độ cũng là một nhà sản xuất dược phẩm được hưởng lợi lớn từ
chính sách di dời ngành công nghiệp dược phẩm của Tây phương, song suy cho cùng
thì nền sản xuất Ấn Độ cũng không thoát được cảnh phụ thuộc đến 80% vào hoạt chất
chính do Trung Quốc bào chế. Nói một cách hình ảnh như chuyên gia Rosemary
Gibson của viện Hastings, Mỹ, thì « Tất cả mọi con đường đều dẫn đến
Trung Quốc ».
Bức màn bí mật thời « thị trường toàn cầu »
Cũng
theo chuyên gia Gibson, điều đáng ngạc nhiên là số liệu thống kê về lĩnh vực dược
phẩm thường được bao phủ bằng một bức màn bí mật cho dù chúng ta đang sống
trong « một thị trường toàn cầu ». Tuy nhiên, việc
khan hiếm nói chung các loại thuốc quan trọng sống còn vào lúc nhiều nhà máy của
Trung Quốc phải ngưng hoạt động, khiến chính phủ các nước yêu cầu phải có các số
liệu chính xác. Từ tổng thống Pháp Emmanuel Macron, nguyên thủ Nga Vladimir
Putin cho đến lãnh đạo Mỹ Donald Trump dường như đều có chung yêu cầu khôi phục
lại nền sản xuất dược phẩm và công nghiệp hóa học của quốc gia. Các nhà lãnh đạo
cũng bắt đầu suy tính đến việc đa dạng hóa và « hồi hương » các
dây chuyền sản xuất quan trọng.
Ông
Bruno Bonnemain, chủ tịch một nhóm làm việc về việc gián đoạn chuỗi cung ứng,
cho Le Figaro biết là tại Viện Dược Phẩm Quốc Gia Pháp, từ 10 năm nay, các nhà
nghiên cứu đã gióng những hồi chuông báo động về việc Pháp mất quyền tự chủ về
dược phẩm do phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc và Ấn Độ. Chuyên gia Bonnemain
giải thích là, ngay từ năm 2011, cơ quan này đã được huy động để tiến hành một
nghiên cứu cho bộ Y Tế Pháp. Theo báo cáo của Viện Dược Phẩm Quốc Gia, « đối
với 86% bệnh viện ở châu Âu, việc khan hiếm thuốc đã trở thành một chủ đề gây
lo ngại hàng ngày. Những loại thuốc có liên quan nhiều nhất là thuốc chống
nhiễm trùng, chống ung thư, tiếp theo đó là các loại thuốc hồi sức cấp cứu, thuốc
tim mạch và thuốc gây mê ».
Chiến lược yếu kém
Nhu
cầu cao của các nước mới mới trỗi dậy đã khiến nhu cầu thuốc trên toàn cầu
khó được đáp ứng. Ngoài ra, còn phải kể đến việc nhiều nhà máy phải ngưng sản
xuất vì các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu, môi trường, kỹ thuật hay xã
hội. Đó là chưa kể đến các vụ tai tiếng về chất lượng thuốc, chẳng hạn héparin,
chất làm loãng máu được nhập khẩu từ Trung Quốc đã làm 81 người tại Mỹ thiệt mạng.
Chuyên gia Bruno Bonnemain lấy làm tiếc là « Không một ai đáp lại
lời kêu gọi của chúng tôi khi vẫn chưa quá muộn ».
Trong
những năm 1980, ngành công nghiệp dược phẩm của châu Âu vẫn rất mạnh. Khoảng
80% các hoạt chất chính vẫn được sản xuất tại châu Âu, chỉ có 20% được nhập từ
nước ngoài. Ấy vậy mà sau 30 năm, hiện nay các con số này đã bị đảo ngược. Ông
Bonnemain nhấn mạnh : « Sự thay đổi lớn bắt đầu diễn ra trong những
năm 1990, sau đó tăng tốc dần vào đầu những năm 2000, khi các doanh nghiệp quyết
định dịch chuyển ồ ạt vì chi phí nhân công và các quy định về môi trường ».
Kế
hoạch ban đầu là tất cả đều được sản xuất tại một nơi. Thế nhưng, với sự cạnh
tranh của thuốc đồng dạng generique được sản xuất tại các nước đang phát triển,
ngành dược phẩm đã thuê thầu phụ cả mảng sản xuất dược liệu thô, hoạt chất và kể
cả thuốc. Đó là thời toàn cầu hóa theo kiểu đôi bên đều có lợi, cho phép một số
doanh nghiệp cất cánh và những công ty khác sản xuất với giá thấp. Từng hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp dược phẩm, ông Bonnemain nói thẳng : « Sai
lầm lớn nhất của các chính phủ của chúng ta là không coi các loại thuốc là sản
phẩm chiến lược nữa. Khi ưu tiên giá thành, họ đã để các doanh nghiệp muốn làm
gì thì làm. Quyền tự chủ đã bị từ bỏ ».
Quá lơ là về hóa hữu cơ
Đã
có thời nước Đức, chứ không phải Trung Quốc, được gọi là nhà máy dược phẩm và
hóa chất của cả thế giới. Nói về chuyện nước Đức dịch chuyển các nhà máy dược
phẩm, giáo sư Stefan Laufer, từng là chủ tịch hiệp hội Dược Sĩ Quốc Gia Đức cho
đến tháng 12/2019, có cùng phân tích như chuyên gia Pháp Bruno Bonnemain. Sự
thay đổi cũng bắt đầu từ đầu những năm 1990, và sự di chuyển lớn nền sản xuất
sang Châu Á và đặc biệt là tới Trung Quốc cũng diễn ra từ 10 năm nay. Ông
Laufet tóm lược : « Do áp lực từ các cơ quan bảo hiểm y tế Đức,
thuốc trở thành một sản phẩm mà tiêu chí quan trọng nhất là giá thành chứ không
phải chất lượng ». Theo ông, yếu tố môi trường là một lý do lớn dẫn đến việc
dịch chuyển ngành hóa học hữu cơ, vốn có lợi cho ngành công nghiệp hóa dược phẩm
rất phát triển của Đức. Chuyên gia Laufer lấy làm tiếc là Đức đã quá lơ là, bỏ
bê các nhà máy hóa hữu cơ ».
Giáo
sư Laufer nhấn mạnh : « Nước Đức đã quá đề cao giá trị thị
trường toàn cầu khi cho rằng không cần nghĩ tới sự độc lập quốc gia bởi vì thị
trường luôn được đáp ứng. Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng. Bây giờ không có thị
trường toàn cầu. Nước nào cũng đóng cửa biên giới và đấu đá nhau để giành giật
khẩu trang và thuốc men ! » Cũng giống như chuyên gia Pháp
Bonnemain, giáo sư Đức Laufer đã gióng những hồi chuông báo động ngay từ năm
2012. Quân đội Đức cũng đã lên tiếng cảnh báo về sự yếu kém về chiến lược. Ông
Laufer nhớ lại : « Chúng tôi đã đến Quốc Hội. Các bản báo cáo được
gửi đến rất nhiều. Nhưng chẳng ai quan tâm … »
Còn
dân biểu Đức Claudia Bernhard, thuộc đảng Die Linke, một người lưu tâm đến
hồ sơ này, giải thích : « Sự thiếu phản ứng của các cơ quan công
quyền là do sự tác động của các nhà vận động hành lang cho ngành dược phẩm », liên
quan đến việc các Quỹ bảo hiểm chịu trách nhiệm ký hợp đồng trực tiếp với các
nhà sản xuất thuốc. Dân biểu này lấy làm tiếc là « Sự thiếu vắng
hành động của chính phủ trung ương đã duy trì sự phụ thuộc về dược phẩm. Nhà
máy sản xuất thuốc kháng sinh cuối cùng tại Đức đã đóng cửa vào năm 2017. Nhà
nước cần cho tái thiết nền công nghiệp dược phẩm, quay lại bào chế các hoạt chất
chính. Nói thì dễ hơn làm, nhưng cuộc khủng hoảng không để cho chúng ta có sự lựa
chọn, đây là câu hỏi sống còn ». Dân biểu Claudia Bernhard lấy
làm mừng vì lãnh đạo Y Tế ở các bang của Đức cũng đề xuất theo hướng nói
trên.
Sự thức tỉnh đầy đau đớn
Liên
quan đến nước Nga, một nhà tư vấn của hãng tin RNC Pharma, Nikolai Bespalov,
cho Le Figaro biết « một cuộc di dời, tương tự những gì đến với
phương Tây, đã xảy ra sau khi Liên Xô sụp đổ, tạo ra sự phụ thuộc mạnh mẽ vào
Trung Quốc và Ấn Độ (về các hoạt chất và dược liệu thô, 50-70%) » Mối
lo là có thật cho dù Nga vẫn có kho dự trữ. Kể từ năm 2010, một nỗ lực dịch
chuyển sản xuất về nước đã được khởi động và chính phủ Nga hồi cuối tháng Hai
đã quyết định thúc đẩy sản xuất trong ngành hóa chất và dược phẩm.
Nhìn
sang nước Mỹ, theo Le Figaro, có môt sự tỉnh thức đầy đau đớn. Với
virus corona, người Mỹ mới nhận ra sức khỏe của họ phụ thuộc vào « đại
địch thủ » Trung Quốc như thế nào. Mặc dù Mỹ vẫn duy trì sản xuất
những hoạt chất chính và các nhà máy vẫn bào chế dược phẩm, nhưng Trung Quốc vẫn
thống trị thị trường Mỹ về dược liệu và các hoạt chất chính để sản xuất thuốc đồng
dạng và kháng sinh đồng dạng. Tình trạng này tạo ra sự suy yếu chiến lược
nghiêm trọng cho nước Mỹ.
Trong
một báo cáo của Hội đồng quan hệ đối ngoại, nhà nghiên cưu Yang Zong Yuhan nhắc
tới một cuộc trao đổi ở Nhà Trắng mà nhà báo Mỹ Bob Woodward từng nới tới, theo
đó kinh tế gia trưởng Gary Cohn của Nhà Trắng lưu ý là trong cuộc chiến thương
mại, Trung Quốc có thể dùng thuốc kháng sinh để đáp trả Mỹ vì Trung Quốc
cung cấp tới 97 % lượng kháng sinh tiêu thụ tại Mỹ : « Nếu
quý vị là người Trung Quốc và quý vị muốn hủy hoại nước Mỹ, đơn giản quý vị chỉ
cần ngưng gửi thuốc kháng sinh cho chúng tôi ».
Nhà
nghiên cứu Rosemary Gibson của viện Hastings nhấn mạnh virus corona càng khiến
Mỹ có ý thức về sự phụ thuộc nói trên. Tân Hoa Xã hôm 04/03 nhận định kịch bản
Trung Quốc ngưng xuất khẩu thuốc men sang Mỹ sẽ gây khó khăn cho Mỹ, « nhấn
chìm nước Mỹ trong đại dương virus corona ». Nhiều nhà chiến lược Mỹ có ý
tưởng tách rời nền kinh tế Mỹ khỏi Trung Quốc. Tại Hạ Viện, một nhóm dân biểu
Dân Chủ và Cộng Hòa đề xuất một dự luật nhằm khuyến khích việc « hồi
hương » một số dây chuyền sản xuất thuốc.
Tuy
nhiên, tất cả các chuyên gia về hồ sơ này đều lưu ý về những khó khăn liên quan
đến thời hạn, chi phí, kiến thức hiểu biết để tái lập nền sản xuất. Chuyên gia
Đức Laufer cũng tỏ ý hoài nghi về lâu dài : « Việc này sẽ phải mất
nhiều năm, các quy trình sản xuất hóa học tinh khiết rất phức tạp, nhất là phải
sáng chế ra các công nghệ riêng để đảm bảo tôn trọng tiêu chuẩn xanh (…)
Việc này đương nhiên sẽ phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa các nước châu Âu, bởi
vì các nước không thể sản xuất toàn bộ chỉ trong nước họ (…) Tất cả những điều
trên đòi hỏi có sự thay đổi thực sự trong tư duy. »
Thùy
Dương (RFI)