Trang

26/01/2019

NGƯỢC DÒNG THỜI GIAN


“Lục Súc Tranh Công” là loại truyện ngụ ngôn xa xưa, được lưu hành từ trước năm 1923. Chắc là những người trẻ ngày nay không biết truyện “Lục Súc Tranh Công”, thậm chí có thể cũng chẳng nghe nói tới – kể cả những người khoảng 50 tuổi.

“Lục Súc Tranh Công” nghĩa là sáu con vật nuôi trong nhà tranh nhau công trạng của mình. Sáu con đó là: Trâu, Chó, Ngựa, Dê, Gà, và Lợn (Heo).

Trong “Lục Súc Tranh Công”, Trâu nói mình làm ăn vất vả, có công sinh ra thóc, gạo, ngô, đỗ (đậu); Chó nói mình có công coi nhà giữ trộm; Ngựa nói mình có công đem chủ đi quán về quê, đánh đông dẹp bắc; Dê nói mình có công trong việc tế lễ; Gà nói mình có công gáy sáng, xem giờ; Lợn nói mình có công trong việc quan, hôn, tang, tế. Sáu con cùng tranh giành công cán, người chủ phải can thiệp vào, dàn hòa mới yên.

Tác giả khuyết danh, nhưng tuyệt phẩm “Lục Súc Tranh Công” đã trở thành truyện ngụ ngôn của Việt Nam – loại di sản chung của dân tộc. Truyện này là loại văn vần, viết theo thể “nói lối” hoặc “cổ phong”.

Nhân dịp Tết Kỷ Hợi, năm con Heo – một trong sáu con vật gần gũi với các gia đình Việt Nam, chúng ta cùng ngược dòng thời gian, trở về quá khứ để ôn cố tri tân, cùng thăm lại “miền ký ức” với tác phẩm “Lục Súc Tranh Công” cổ xưa...

TỰA
 
Trời hóa sinh muôn vật,
Đất dung dưỡng mọi loài,
Giống nào là giống chẳng có tài;
Người đâu dễ không nhờ vật.
Long chức quản bổ thiên, dục nhật.
Lân quyền tư giúp thánh, phò thần.
Quy thông hay thành bại, kiết hung.
Phụng lảu biết thạnh suy, bĩ thái.
Trong trời đất ba ngàn thế giái
Đều xưng rằng tứ vật chí linh.
Nhẫn đến loài lục súc hi sinh,
Trời cho xuống hộ người dương thế.

TRÂU

TRÂU mỏi nhọc, trâu liền năn nỉ:
Một mình trâu ghe nỗi gian nan,
Lóng canh gà vừa mới gáy tan,
Chủ đã gọi thằng chăn vội vã.
Dạy rằng: đuổi trâu ra thảo dã,
Cho nó ăn ba miếng đỡ lòng.
Chưa bao lâu thoắt đã rạng đông;
Vừa đến buổi cày bừa bua việc.
Trước cổ đã mang hai cái niệt
Sau đuôi thêm kéo một cái cày;
Miệng đã dàm, mũi lại dòng dây,
Trên lưng ruồi bâu, dưới chân đỉa cắn.
Trâu mệt đà thở dài, thở vắn,
Người còn hầm hét, mắng ngược mắng xuôi.
Liệu vừa đứng bóng mới thôi,
Đói hòa mệt, bước khôn dời bước.
Ai thong thả, trâu nào ben đặng?
Trâu nhọc nhằn, ai dễ thế cho?
Cày ruộng sâu, ruộng cạn cho no,
Lại vườn đậu, vườn mè khiến chở.

Làm không kịp thở,
Ăn không kịp nhai.
Tắm mưa, trải gió chi nài,
Đạp tuyết, giày sương bao sá!

Có trâu, sẵn tằm tơ, lúa má,
Không trâu, không hoa quả, đậu mè,
Lúa gặt cất lên đà có trâu xe,
Lúa chất trữ, lại để dành trâu đạp.
Từ tháng giêng cho đến tháng chạp,
Kể xuân, hè, nhẫn đến thu, đông,
Việc cày bừa, nông vụ vừa xong,
Lại xe gỗ, dầm công liên khói,
Bất luận xe rào, xe củi.
Nhẫn đến loài phân bổi, tranh che,
Hễ bao nhiêu nhất thiết của chi,
Thì đã phú mặc trâu chuyên chở.
Bao quản núi non hiểm trở?
Chi nài khe suối dầm dề?
Cong lưng chịu việc nặng nề,
Cay đắng những lời dức lác!

Ăn thì những rơm khô, cỏ rác,
Ở quản chi ràn lấm, tráp nè.
Trâu dựng nên nông nọ, nỗi kia;
Trâu làm đặng căn trên, bồ dưới.
Nghĩ suy lại công trâu cho phải,
Lẽ cho trâu thao lụa mặc dày.
Không chi thì quần vải, dải gai,
Không chi thì khố lưỡi cày cũng khá.
Ăn cho phải những cơm với cá,
Không nữa thì rau cháo cũng nên,
Đến mai sau già cả sức hèn,
Cũng bảo dưỡng bổ công lao lý.
Khi mạng một chẳng đơm, chẳng tế;
Lẽ “sinh cử, tử táng”, mới ưng.
Thủa sống đà không dạ yêu đương,
Khi thác lại đoạn tình siêu độ.
Bảo nhau sắm con dao, cái rổ,
Khiến nhau vơ mớ củi, nắm nè.
Rằng: Trâu này cốt Phật xưa kia,
Phát đình liệu cho hồn thăng thiên giái.
Còn hình tích giống chi để lại,
Người người đều bàn bạc với nhau:
Kẻ thì rằng: Tôi lãnh cái đầu,
Người lại nói: Phần tôi cái nọng.
Kẻ giành lòng bóng ép gối mà kê,
Còn sừng đem về ép thoi làm lược.
Kẻ thì chuốc hoa tai, làm bầu liều.
Làm tù và mà thổi cũng kêu,
Tiện con cờ mà đánh cũng tốt.
Kẻ thì làm cái mõ, cáo hộp,
Người lại tỉa cán quạt, cán dao.
Còn giò chia nhau,
Làm nham, làm thấu.

Trâu gẫm lại là loài cầm thú,
Phận sau chịu vậy, dám nài!
Trâu thác đã công nghiệp phủi rồi,
Trâu sống lại kiện nài với chủ:
Không nhớ thủa bôi chuông đường hạ
Ơn Tề vương vô tội kiến tha
Tưởng chưng khi sức mọn tuổi già,
Cám Điền tử dạy con chớ bán.
Lời cổ nhân còn dặn,
Sao ông chủ vội quên?

Chẳng nhớ câu “dĩ đức hành nhân”.
Lại lấy chữ “báo ân dĩ oán!”
Nói chi nữa cho dài chuyện vãn?
Thưa chủ xin nói thép một lời:
Nhưng loài muông, vô tướng, vô tài,
Nuôi giống ấy làm chi cho nhọc?
Ăn cho lớn, dưỡng vai, dưỡng vóc,
Giỡn với nhau vạch cửa, vạch sân,
Một ngày ba bữa chực ăn,
Thấy đến việc lén mình lét lét.
Chưa rét đã phô rằng rét,
Xo ro đuôi quít vào trôn,
Vấy bếp người, tro trấu chẳng còn,
Ba ông táo lộn đầu, lộn óc,
Chưa sốt đà nằm dài thở dốc.
Le lưỡi ra phỏng ước dư gang.
Lại thấy người lơ đĩnh lơ hoang
Tài ăn vụng thôi thì hơn chúng.
Nhưng muông biết cày nương, bừa ruộng,
Thì muông kể biết mấy công ơn ?
Muông, người cho ăn cháo, ăn cơm,
Trâu, người bắt nhai rơm, nhai cỏ.
Khi muông thác tống chung, an thổ,
Có gạo tiền cấp táng toàn thân,
Trách một lòng chủ ở bất công,
Hậu ư bạc, bạc đem làm hậu”.


TRẦM THIÊN THU  Sưu tầm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Các bạn có thể:
- Viết bình luận trước, sau đó. .
- Copy và dán trực tiếp link ảnh vào khung nhận xét. Sau link ảnh đã dán, không gõ thêm bất kỳ ký tự nào nữa (kể cả nhấn phím Enter).
- Cám ơn Bạn đã bình luận về bài viết.